Thursday, July 25, 2013

Một khúc nhạc trầm



2 bài thơ Bàng Sĩ Nguyên


Về thăm nhà sàn vườn cũ

Hồn tôi mang nhớ nhưng lặng lẽ
đọng vào ý thơ
êm dịu ý lời
ngày thường sắp sang năm
sắc lá vàng rải rắc
cả hồn thơ phảng phất giao mùa
lá và gió cùng đều thinh lặng
nép mình nghe mưa thầm thì buông lơi
cả bóng ngày chưa tắt
thức tỉnh nỗi buồn mộng mơ
bao lúc chờ mong thầm ước
hẹn gặp nhau nhà cũ vườn xưa
biết sao nói được
với sắc mầu tri âm
với chữ lời thao thức
đợi chờ mà bâng khâng
Giờ đây tìm tới nhau
Gió vò xé tâm can trở lại
Mưa lạnh chốn vườn xưa
Trong ngôi nhà sàn cũ
Nơi nghĩ suy của bạn ngày nào
lạnh giá tường rêu phủ
Tôi vun lá vườn đốt lửa
Lửa vườn rực cháy
Khói tứ bề xao xuyến nao nao
Hồi tưởng một ngày xa cũ
đôi hồn thơ ấp ủ nỗi niềm
Tự suy ngẫm lòng luôn tự hỏi
Những duyên trần ấp ủ chưa quên
tháng năm đi
Cơn gió đoái nào đâu đã tắt
Cây vườn xưa khép lại nếp rêu cũ tiêu sơ
Ngọn lửa đợi anh về cùng sưởi
Cho lòng ta cùng ấm
Nỗi lòng tôi được ấm giữa hoang sơ






Khúc nhạc trầm hồn ngây dại

Tôi nghe tiếng chim gọi đàn
Con chim gáy gọi bạn
Hồn tôi muốn van
muốn gọi theo chim

Lắng đọng trong tôi
Tiếng chim gáy của ngày an bình
Dẫn đưa tôi về quá khứ

Nghe con chim gáy
Tiếng gáy trong gió thoảng
Trong vườn hoang
Thời sơ tán

Khúc nhạc trầm này
Sáng trong ký ức
Như tiếng kinh cầu khiêm nhu

Bay trong mùa lúa thơm
Cùng tiếng di tiếng sẻ
Không thiếu tiếng chim vui buồn
Cùng xóm chiều yên ắng
Nhìn lên trời trong toả rạng ngời
Mây trắng buồn
Thiết tha

Mây lập thành đóng trại
Gợi những ngày chiến tranh
Mây giăng thành như Trường Sơn
Cái thời tôi sống trong mất còn
Khói lửa bão bùng
Tôi bước đi
Từ nỗi u sầu
Của những năm chết đói…
Nghe tiếng chim gọi
Mà lòng tôi đau

Tiếng chim gáy vô tư ngọt ngào
Khúc nhạc trầm
Nức nở trong hồn tôi
Ngây dại…










 

Một khúc nhạc trầm

     Tôi được biết thi sĩ Bàng Sĩ Nguyên qua cha tôi  từ rất lâu rồi. Vào một ngày giáp tết năm 1982, ông cùng với cha tôi, nhà văn Nguyễn Đình Thi lên tận bản Nà Coọc, Chiêm Hoá, Tuyên Quang đi tìm mộ mẹ tôi mất từ năm 1951. Tại sao cha tôi lại mời ông đi cùng, hay là ông tự nguyện đi với cha tôi. Tôi không biết. Chỉ biết khi vào đến bản Nà Coọc ông cứ chạy ngược chạy xuôi từ đầu bản đến cuối bản, tay cầm một mảnh giấy nhỏ ghi chép hình thế phong thổ của vạt rừng để cố tìm vị trí ngôi mộ mẹ tôi đã mất tiêu lẫn vào cây cỏ nui rừng. Đêm đó, hai ông tạt vào nghỉ nhờ trong một ngôi nhà sàn ọp ẹp của một cụ già người Thổ cuối bản. Suốt đêm hai ông ngồi nói chuyện bên bếp lửa bập bùng giữa nhà vừa nướng ngô vừa nói chuyện. Hai ông nói về cuộc tranh luận phê bình thơ không vần trong kháng chiến chống Pháp. Rồi ông Bàng cứ nói mãi về một me xừ xứ Huế nào đó vừa nagọ mạn vừa run sợ mưu hèn rắp tâm lập triều chính, vương quốc riêng kéo bè kéo cánh trong văn nghệ. Khi hăng lên, hai ông nói toàn tiến Pháp ( Chắc là không muốn cho tôi hiểu). Phải đến một ngày giáp tết 24 năm sau, năm 2006, tôi lại được ngồi cạnh ông bên đống lửa cháy đùng đùng trên bãi sông Hồng. Vẫn cái mùi ngô nướng rất thơm không thể nào quyên được. Tính tới năm nay, cha tôi đã mất được 3 năm rồi. ông không còn sống để nói tiếng Pháp thơ ca với thi sĩ họ Bàng. Vì vậy thi sĩ họ Bàng đành ngồi nói chuyện với tôi. Ông nói chuyện với tôi mà nhiều lúc tôi có cảm giác «ng đang nói chuyện với ông Thi đang bay lượn ở trên trời. Và suốt tối hôm đó thi sĩ họ Bàng thỉnh thoảng lại xổ ra hang tràng tiếng Pháp. Ông hăm hở nhắc lại một cái me xừ xứ Huế nào đó rất thấp kém về nhân cách chỉ giỏi ném đá dấu tay đứng đằng sau xúi bẩy anh em văn nghệ sĩ đấm đá lẫn nhau. Vẫn chỉ me xừ chứ không nói toạc tên ra. Lịch lãm đấy. Ông xuýt xoa  nhắc tới cha tôi.  Mười bẩy tuổi anh Thi đã đủ tiếng Pháp để viết triết học. Thông minh nổi tiếng. Rồi thi sĩ họ Bàng nói về bài Hà lạc trong kinh Dịch, nói về đất đai, phong thuỷ, về một thế giới tâm linh bí ẩn ông cắt nghĩa vì sao đúng 50 năm sau, năm 2001 tôi lại tìm thấy mộ mẹ tôi giữa bạt ngàn nói rừng hoang vu Nà Coọc…Và ông nói về  nguỵ biện luận của người Tàu ngày xưa. Ông nói về cách vẽ tranh bằng 5 ngón tay và cách xử dụng các móng tay để vuốt mảnh nét vẽ. Và cuối cùng ông nói về  thơ hậu hiện đại. Đêm khuya cuối năm. Bãi sông thông thống. Gió lạnh gào rú. Ngọn lửa bùng cháy dữ dội. Thi sĩ họ Bàng tề chỉnh com lê trắng, khăn phu la sành điệu. Râu vểnh ngược. Cao hứng ông dạo thế võ đá tung thanh củi tàn lửa bay tán loạn. Rồi ông quỳ xuống cất giọng ư ử hát một bài hát của người Nhật Bản. Ông hát bằng tiếng Nhật. Dù chẳng biết một nửa chữ Nhật nhưng tôi nghe rõ lời khóc than của một người trai Nhật Bản đau đớn tiếc thương người tình của mình đã bị kẻ thù chém chết bên bờ suối trong rừng sâu …
   
Sáng ngày hôm sau, bên tro tàn của đống lửa, tôi nằm toài trên cát và viết một mạch lời tựa mấy nghìn chữ cho tập thơ Khúc nhạc trầm hồn ngây dại của ông. Một tập thơ ông viết trong 5 đêm chỉ uống rượu xuông và thức trắng. Một tập thơ Nhà xuất bản Văn Học đã in rất nhanh trong năm 2006. Một tập thơ lạ lùng. Chỉ tiếc là nó qúa bơ vơ trong thế giới thi ca bánh phồng tôm vô tình bát nháo hiện nay.
  
 Thi sĩ họ Bàng là ai vậy.
    
 Hơn 80 năm, cũng có thể coi là đã gần hết một kiếp người, nh­ư dòng suối ngạo mạn mà khiêm nh­ường mê mải tuôn trào giữa hai bờ cát  trắng cây cỏ hoang dại cuộc đời. Không vướng kẹt. Hay là suốt đời vướng kẹt mà cứ tự coi là như không vướng kẹt. Chẳng đoái hoài tới những cơn gió lạnh buốt tháng Giêng và cả những hương mùa Thu tháng M­ười quyến rũ. Dòng suối đời 80 năm cứ mê mải tuôn trào. Về đâu? Về cái chết biệt vô âm tín, hay về chốn vĩnh hằng muôn đời. Như­ng có một hiển nhiên dòng suối tuôn trào đó bao giờ cũng là hành sử, là thái độ của Bàng Sĩ Nguyên mỗi khi ông tiếp xúc với thi ca và hội hoạ.
    
Sinh năm 1925 ở Hà Nội. Mang họ Bàng, nh­ưng lại là hậu duệ đích tôn của hoàng tử thứ ba Lý Hùng Tích Hoài Nam Vương trong những ngày diệt vong cuối cùng của một triều đại đổ nát. Đã hơn 700 năm trôi qua rồi, thay tên đổi họ để tránh cái họa chu di cửu tộc mà nay cũng chỉ còn nh­ư một truyền thuyết. Tóc trắng, râu trắng, vóc hạc mình tiên, thi sĩ họ Bàng dù là ngồi lù xù n­ướng khoai bên bếp lửa đêm cận giao thừa, chân tay lấm lem, râu tóc dựng ngược mà thỉnh thoảng vẫn loé lên cái cốt cách vương giả, kiêu hãnh khác ng­ười.
  
  Những năm trước Cách mạng tháng 8 -1945, Bàng Sĩ Nguyên học chữ Hán, chữ Anh, chữ Pháp, chữ La Tinh. Ông đọc Immanuel Kant, Francis Bacon, Schopenhauer, Heiderger, Spencer…và hoạt động trong các tổ chức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác ở Hà Nội. Từ năm 1946, ông đi bộ đội làm báo Xông Pha, báo Dân Quân Việt Bắc, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các ông Nguyễn Khang, Nguyễn Đông. Ông đã từng nhận các cương vị: cán sự kiểm tra, cán bộ tuyên huấn bộ tư­ lệnh và là chính trị viên kiêm đoàn trưởng đoàn văn công quân đội mà Nguyễn Đức Toàn là cấp phó của ông khi Hoàng Cầm đã thôi việc. Tới năm 1956, ông được Ban tổ chức Trung ương Đảng điều động ra ngoài quân đội cùng Hoàng Trung Thông, Hữu Loan, Đào Vũ, Nguyễn Đình Thi…thành lập báo Văn Nghệ và  tiếp sau là Tạp chí Văn nghệ.
Ông cũng là một trong 37 hội viên sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam. Khi thành lập trường viết văn ở Quảng Bá, ông lại được điều về phụ trách Phó hiệu tr­ưởng. Năm 1985, tròn 60 tuổi vào Sài Gòn sống một mình, về h­ưu, vẽ tranh, giảng triết học và viết lý luận nghệ thuật, mở phòng tranh và triển lãm tiếp tục nghề họa từ phòng tranh nguyên tác tại Giảng Võ, Hà Nội từ năm 1978, khi ấy được Tùng Giang, Trần Độ, báo chí và các Hội nghệ thuật đều ủng hộ.

    Từ năm 1956 đến 1985, Bàng Sĩ Nguyên lần l­ượt cho xuất bản 7 tập thơ. Khúc nhạc trầm hồn ngay dại là tập thứ 8 sau đúng 20 năm tự mình treo bút.
  
  Non một thế kỷ nay, thơ ca thế giới chuyển động ào ạt chống lại sự chùng lỏng của chủ nghĩa tình cảm và sự man trá đạo đức giả. Bắt đầu từ trào lư­u Duy hình t­ượng, tới những thể nghiệm tr­ường phái Hiện đại chủ nghĩa, rồi Chủ nghĩa Hậu hiện đại với liên tiếp các khuynh hướng Hình t­ượng sâu tận dụng triệt để những sáng tạo từ nguồn tâm linh, vô thức. Khuynh hướng Ngẫu nhiên tìm lối thoát ở tinh thần Thiền Tông. Khuynh hướng Tự thú, khuynh hướng Thơ trình diễn với những văn bản thơ được sự hỗ trợ của các phương tiện điện tử tối tân và mỹ thuật khái niệm rầm  rộ trình diễn trên sân khấu…Phải làm một cuộc điểm danh thiếu sót và khiên c­ưỡng như­ vậy, là muốn nói ở đây tập thơ này: Khúc nhạc trầm hồn ngây dai có một sự liên hệ và nhập cuộc, hoà trộn kỳ lạ với dòng chảy của thơ ca thế giới hiện đại.
   
 Thật ra thì Bàng Sĩ Nguyên cũng đã lập ngôn qua 7 tập thơ đã in mấy chục năm tr­ước. Có thể không khó khăn gì không tìm thấy những suy t­ư triết học về thân phận con người, về vẻ đẹp của tình yêu và  cuộc sống trong những câu thơ hết sức bình dị và trong trẻo của một khuynh hướng chập chờn hiện thực và siêu thực. Phải chăng đó cũng là phản ứng thầm lặng, kín đáo và có chút e sợ của ông tr­ước dòng thơ thực tại thô sơ nh­ưng lại hung hăng hào nhoáng. Và 20 năm rồi, những tưởng ông đã yên nghỉ trong nấm mồ thi ca và chỉ còn biết bày tỏ mình trong hội họa và triết học. Như­ng không! Khai mở hôm nay Khúc nhạc trầm hồn ngay dại là một sự tái sinh phi lý. Đó là một sự tái sinh, một sự sống lại của cái phi lý ứa trào nhựa sống ẩn mình nằm giữa cái có lý già cỗi hấp hối. Sự lột xác, hồi xuân của một tâm hồn đang trên đường say đắm nghệ thuật thơ ca và cũng là của một thể xác đang cháy những giọt dầu cuộc sống cuối cùng. Bây giờ ta biết gọi Bàng Sĩ Nguyên là gì? Một chàng thi nhân 20 tuổi ngời ngời minh triêt và ào ào trực cảm dục vọng xuân thì.
  
  Lâu nay chúng ta vẫn có thói quen ngợi ca sự sáng tạo từ ý thức chói sáng mà lãng quên những sáng tạo nghệ thuật đích thực chỉ có thể chồi ra từ vô thức mù mờ. Chúng ta quá tin cậy vào sự nhận biết thế giới qua những tư tưởng tự tin đến khô kiệt, qua kinh nghiệm chủ quan đến ngạo mạn và các giác quan khoa học dửng dưng, mà phũ phàng với sự tìm kiếm hiện thực từ những nhận thức trực khởi, từ những chiêm nghiệm du già, từ những ám ảnh tâm linh, những mặc cảm bí ẩn của tâm hồn người nghệ sĩ. Đó là một tai hoạ trời đầy. Nốt nhạc trầm của nỗi buồn chẳng hề lạc quan. Hồn ngây dại của một trí tuệ minh triết mỏi mệt. Thơ Việt Nam hiện đại có thể tìm thấy một lối thoát bắt đầu từ những khúc nhạc trầm, từ những hồn ngây dại chăng? Sẽ còn bao nhiêu lối thoát nữa và của ai và bao giờ?
    
Ta có thể tìm thấy trong tập thơ này những ngôn từ thật lạ lùng, thật ngu ngơ, thật ma mị, ý thơ sáng rõ mà lại chập chờn thực ảo. Và tình như lửa ngục, như nước hiền, như gió vô tình thoảng qua. Và trên hết là sự chiêm nghiệm lắng sâu nỗi buồn của một trí tuệ đã bất ngờ nhìn thấy cái chết tàn rữa thể xác trần tục và mầm tái sinh trường cửu những linh hồn thánh.
    
Vượt lên sự mưu danh cho chính mình. Khúc nhạc trầm hồn ngây dại là tuyên ngôn mới nhất của Bàng Sĩ Nguyên về nghệ thuật, nếu không phải hay là chưa thể dành cho trùng điệp đám đông thì, cũng đích thực dành cho chính ông và những người mấy chục năm nay lặng lẽ đứng sát bên cạnh ông.


Nguyễn Đình Chính



No comments: