2 bài thơ Bàng Sĩ Nguyên
Về
thăm nhà sàn vườn cũ
Hồn
tôi mang nhớ nhưng lặng lẽ
đọng
vào ý thơ
êm
dịu ý lời
ngày
thường sắp sang năm
sắc
lá vàng rải rắc
cả
hồn thơ phảng phất giao mùa
lá
và gió cùng đều thinh lặng
nép
mình nghe mưa thầm thì buông lơi
cả
bóng ngày chưa tắt
thức
tỉnh nỗi buồn mộng mơ
bao
lúc chờ mong thầm ước
hẹn
gặp nhau nhà cũ vườn xưa
biết
sao nói được
với
sắc mầu tri âm
với
chữ lời thao thức
đợi
chờ mà bâng khâng
Giờ
đây tìm tới nhau
Gió
vò xé tâm can trở lại
Mưa
lạnh chốn vườn xưa
Trong
ngôi nhà sàn cũ
Nơi
nghĩ suy của bạn ngày nào
lạnh
giá tường rêu phủ
Tôi
vun lá vườn đốt lửa
Lửa
vườn rực cháy
Khói
tứ bề xao xuyến nao nao
Hồi
tưởng một ngày xa cũ
đôi
hồn thơ ấp ủ nỗi niềm
Tự
suy ngẫm lòng luôn tự hỏi
Những
duyên trần ấp ủ chưa quên
tháng
năm đi
Cơn
gió đoái nào đâu đã tắt
Cây
vườn xưa khép lại nếp rêu cũ tiêu sơ
Ngọn
lửa đợi anh về cùng sưởi
Cho
lòng ta cùng ấm
Nỗi
lòng tôi được ấm giữa hoang sơ
Khúc nhạc trầm hồn ngây dại
Tôi nghe tiếng chim
gọi đàn
Con chim gáy gọi bạn
Hồn tôi muốn van
muốn gọi theo chim
Lắng đọng trong tôi
Tiếng chim gáy của
ngày an bình
Dẫn đưa tôi về quá khứ
Nghe con chim gáy
Tiếng gáy trong gió
thoảng
Trong vườn hoang
Thời sơ tán
Khúc nhạc trầm này
Sáng trong ký ức
Như tiếng kinh cầu
khiêm nhu
Bay trong mùa lúa thơm
Cùng tiếng di tiếng sẻ
Không thiếu tiếng chim
vui buồn
Cùng xóm chiều yên ắng
Nhìn lên trời trong
toả rạng ngời
Mây trắng buồn
Thiết tha
Mây lập thành đóng
trại
Gợi những ngày chiến
tranh
Mây giăng thành như
Trường Sơn
Cái thời tôi sống
trong mất còn
Khói lửa bão bùng
Tôi bước đi
Từ nỗi u sầu
Của những năm chết
đói…
Nghe tiếng chim gọi
Mà lòng tôi đau
Tiếng chim gáy vô tư
ngọt ngào
Khúc nhạc trầm
Nức nở trong hồn tôi
Ngây dại…
Một khúc nhạc trầm
Tôi được biết thi sĩ Bàng Sĩ Nguyên qua cha tôi từ rất lâu rồi. Vào một ngày giáp tết năm 1982, ông cùng với cha
tôi, nhà văn Nguyễn Đình Thi lên tận bản Nà Coọc, Chiêm Hoá, Tuyên Quang đi tìm mộ mẹ tôi mất từ năm 1951.
Tại sao cha tôi lại mời ông đi cùng, hay là ông tự nguyện đi với cha tôi. Tôi
không biết. Chỉ biết khi vào đến bản Nà Coọc
ông cứ chạy ngược chạy xuôi từ đầu bản đến cuối bản, tay cầm một mảnh giấy
nhỏ ghi chép hình thế phong thổ của vạt rừng để cố tìm vị trí ngôi mộ mẹ tôi
đã mất tiêu lẫn
vào cây cỏ nui rừng. Đêm đó, hai ông
tạt vào nghỉ nhờ trong một ngôi nhà sàn ọp ẹp của một cụ già người Thổ cuối
bản. Suốt đêm hai ông ngồi nói chuyện bên bếp lửa bập bùng giữa nhà vừa nướng
ngô vừa nói chuyện. Hai ông nói về cuộc tranh luận phê bình thơ không vần trong
kháng chiến chống Pháp. Rồi ông Bàng cứ nói mãi về một me xừ xứ Huế nào đó vừa nagọ mạn vừa run sợ
mưu hèn rắp tâm lập triều chính, vương quốc riêng kéo bè kéo cánh trong văn nghệ. Khi hăng lên, hai
ông nói toàn tiến Pháp ( Chắc là không muốn cho tôi hiểu). Phải đến một ngày
giáp tết 24 năm sau, năm 2006, tôi lại được ngồi cạnh ông bên đống lửa cháy đùng đùng trên bãi sông Hồng. Vẫn cái mùi
ngô nướng rất thơm không thể nào quyên được. Tính tới năm nay, cha tôi đã mất
được 3 năm rồi. ông không còn sống để nói tiếng Pháp thơ ca với thi sĩ họ
Bàng. Vì vậy thi sĩ họ Bàng đành ngồi nói chuyện với tôi. Ông nói chuyện với
tôi mà nhiều lúc tôi có cảm giác «ng đang
nói chuyện với ông Thi đang bay lượn ở trên trời. Và suốt tối hôm đó thi sĩ
họ Bàng thỉnh thoảng lại xổ ra hang tràng tiếng Pháp. Ông hăm hở nhắc lại một
cái me xừ xứ Huế nào đó rất thấp kém về nhân cách chỉ giỏi ném đá dấu tay
đứng đằng sau xúi bẩy anh em văn nghệ sĩ đấm đá lẫn nhau. Vẫn chỉ me xừ chứ không nói toạc tên ra. Lịch lãm đấy. Ông xuýt
xoa nhắc tới cha tôi. Mười bẩy tuổi anh Thi đã đủ tiếng Pháp để
viết triết học. Thông minh nổi tiếng. Rồi thi sĩ họ Bàng nói về bài Hà lạc
trong kinh Dịch, nói về đất đai, phong thuỷ, về một thế giới tâm linh bí ẩn
ông cắt nghĩa vì sao đúng 50 năm sau, năm 2001 tôi lại tìm thấy mộ mẹ tôi
giữa bạt ngàn
nói rừng hoang vu Nà Coọc…Và ông nói
về nguỵ biện luận của người Tàu ngày xưa. Ông nói về
cách vẽ tranh bằng 5 ngón tay và cách xử dụng các móng tay để vuốt mảnh nét
vẽ. Và cuối cùng ông nói về thơ hậu hiện đại. Đêm khuya cuối năm. Bãi
sông thông thống. Gió lạnh gào rú. Ngọn lửa bùng cháy dữ dội. Thi sĩ họ Bàng
tề chỉnh com lê trắng, khăn phu la sành điệu. Râu vểnh ngược. Cao hứng ông
dạo thế võ đá tung thanh củi tàn lửa bay tán loạn. Rồi ông quỳ xuống cất
giọng ư ử hát một bài hát của người Nhật Bản. Ông hát bằng tiếng Nhật. Dù
chẳng biết một nửa chữ Nhật nhưng tôi nghe rõ lời khóc than của một người
trai Nhật Bản đau đớn tiếc thương người tình của mình đã bị kẻ thù chém chết
bên bờ suối trong rừng sâu …
Sáng ngày hôm
sau, bên tro tàn của đống lửa, tôi nằm toài trên cát và viết một mạch lời tựa
mấy nghìn chữ cho tập thơ Khúc nhạc trầm hồn ngây dại của
ông. Một tập thơ ông viết trong 5 đêm chỉ uống rượu xuông và thức trắng. Một
tập thơ Nhà xuất bản Văn Học đã in rất nhanh trong năm 2006. Một tập thơ lạ
lùng. Chỉ tiếc là nó qúa bơ vơ trong thế giới thi ca bánh phồng tôm vô tình
bát nháo hiện nay.
Thi sĩ họ
Bàng là ai vậy.
Hơn 80 năm, cũng có thể coi là đã gần hết một kiếp người, như dòng suối ngạo
mạn mà khiêm nhường mê mải tuôn trào giữa hai bờ cát trắng cây cỏ
hoang dại cuộc đời.
Không vướng kẹt. Hay là suốt đời vướng kẹt mà cứ tự coi là như không vướng kẹt. Chẳng đoái hoài tới những cơn
gió lạnh buốt tháng Giêng và cả những hương mùa Thu tháng Mười quyến rũ.
Dòng suối đời 80 năm cứ mê mải tuôn trào. Về đâu? Về cái chết biệt vô âm tín,
hay về chốn vĩnh hằng muôn đời. Nhưng có một hiển nhiên dòng suối tuôn trào
đó bao giờ cũng là hành sử, là thái độ của Bàng Sĩ
Nguyên mỗi khi ông tiếp xúc với thi ca và hội hoạ.
Sinh
năm 1925 ở Hà Nội. Mang họ Bàng, nhưng lại là hậu duệ đích tôn của hoàng tử
thứ ba Lý Hùng Tích Hoài Nam Vương trong những ngày diệt vong cuối cùng của
một triều đại đổ nát. Đã hơn 700 năm trôi qua rồi, thay tên đổi họ để tránh
cái họa chu di cửu tộc mà nay cũng chỉ còn như một truyền thuyết. Tóc trắng,
râu trắng, vóc hạc mình tiên, thi sĩ họ Bàng dù là ngồi lù xù nướng khoai
bên bếp lửa đêm cận giao thừa, chân tay lấm lem, râu tóc dựng ngược mà thỉnh
thoảng vẫn loé lên cái cốt cách vương giả, kiêu hãnh khác người.
Những năm trước Cách mạng
tháng 8 -1945, Bàng Sĩ Nguyên học chữ Hán, chữ Anh, chữ Pháp, chữ La Tinh.
Ông đọc Immanuel Kant, Francis Bacon, Schopenhauer, Heiderger, Spencer…và
hoạt động trong các tổ chức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác ở Hà Nội. Từ năm 1946,
ông đi bộ đội làm báo Xông Pha, báo Dân Quân Việt Bắc, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của các ông Nguyễn Khang, Nguyễn Đông. Ông đã từng nhận các cương vị:
cán sự kiểm tra, cán bộ tuyên huấn bộ tư lệnh và là chính trị viên kiêm đoàn
trưởng đoàn văn công quân đội mà Nguyễn Đức Toàn là cấp phó của ông khi Hoàng
Cầm đã thôi việc. Tới năm 1956, ông được Ban tổ chức Trung ương Đảng điều
động ra ngoài quân đội cùng Hoàng Trung Thông, Hữu Loan, Đào Vũ, Nguyễn Đình
Thi…thành lập báo Văn Nghệ và tiếp sau là Tạp chí Văn nghệ.
Ông cũng là một trong 37
hội viên sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam. Khi thành lập trường viết
văn ở Quảng Bá, ông lại được điều về phụ trách Phó hiệu trưởng. Năm 1985,
tròn 60 tuổi vào Sài Gòn sống một mình, về hưu, vẽ tranh, giảng triết học và
viết lý luận nghệ thuật, mở phòng tranh và triển lãm tiếp tục nghề họa từ
phòng tranh nguyên tác tại Giảng Võ, Hà Nội từ năm 1978, khi ấy được Tùng
Giang, Trần Độ, báo chí và các Hội nghệ thuật đều ủng hộ.
Từ năm
1956 đến 1985, Bàng Sĩ Nguyên lần lượt cho xuất bản 7 tập thơ. Khúc
nhạc trầm hồn ngay dại là tập thứ 8 sau đúng 20 năm tự mình treo
bút.
Non một
thế kỷ nay, thơ ca thế giới chuyển động ào ạt chống lại sự chùng lỏng của chủ
nghĩa tình cảm và sự man trá đạo đức giả. Bắt đầu từ trào lưu Duy hình tượng,
tới những thể nghiệm trường phái Hiện đại chủ nghĩa, rồi Chủ nghĩa Hậu hiện
đại với liên tiếp các khuynh hướng Hình tượng sâu tận dụng triệt để những
sáng tạo từ nguồn tâm linh, vô thức. Khuynh hướng Ngẫu nhiên tìm lối thoát ở
tinh thần Thiền Tông. Khuynh hướng Tự thú, khuynh hướng Thơ trình diễn với
những văn bản thơ được sự hỗ trợ của các phương tiện điện tử tối tân và mỹ
thuật khái niệm rầm rộ trình diễn trên sân khấu…Phải làm một cuộc điểm
danh thiếu sót và khiên cưỡng như vậy, là muốn nói ở đây tập thơ này: Khúc
nhạc trầm hồn ngây dai có một sự liên hệ và nhập cuộc, hoà trộn kỳ
lạ với dòng chảy của thơ ca thế giới hiện đại.
Thật ra
thì Bàng Sĩ Nguyên cũng đã lập ngôn qua 7 tập thơ đã in mấy chục năm trước.
Có thể không khó khăn gì không tìm thấy những suy tư triết học về thân phận
con người, về vẻ đẹp của tình yêu và cuộc sống trong những câu thơ hết
sức bình dị và trong trẻo của một khuynh hướng chập chờn hiện thực và siêu
thực. Phải chăng đó cũng là phản ứng thầm lặng, kín đáo và có chút e sợ của
ông trước dòng thơ thực tại thô sơ nhưng lại hung hăng hào nhoáng. Và 20
năm rồi, những tưởng ông đã yên nghỉ trong nấm mồ thi ca và chỉ còn biết bày
tỏ mình trong hội họa và triết học. Nhưng không! Khai mở hôm nay Khúc
nhạc trầm hồn ngay dại là một sự tái sinh phi lý. Đó là một sự tái
sinh, một sự sống lại của cái phi lý ứa trào nhựa sống ẩn mình nằm giữa cái
có lý già cỗi hấp hối. Sự lột xác, hồi xuân của một tâm hồn đang trên đường
say đắm nghệ thuật thơ ca và cũng là của một thể xác đang cháy những giọt dầu
cuộc sống cuối cùng. Bây giờ ta biết gọi Bàng Sĩ Nguyên là gì? Một chàng thi
nhân 20 tuổi ngời ngời minh triêt và ào ào trực cảm dục vọng xuân thì.
Lâu nay
chúng ta vẫn có thói quen ngợi ca sự sáng tạo từ ý thức chói sáng mà lãng
quên những sáng tạo nghệ thuật đích thực chỉ có thể chồi ra từ vô thức mù mờ.
Chúng ta quá tin cậy vào sự nhận biết thế giới qua những tư tưởng tự tin đến
khô kiệt, qua kinh nghiệm chủ quan đến ngạo mạn và các giác quan khoa học
dửng dưng, mà phũ phàng với sự tìm kiếm hiện thực từ những nhận thức trực
khởi, từ những chiêm nghiệm du già, từ những ám ảnh tâm linh, những mặc cảm
bí ẩn của tâm hồn người nghệ sĩ. Đó là một tai hoạ trời đầy. Nốt nhạc trầm
của nỗi buồn chẳng hề lạc quan. Hồn ngây dại của một trí tuệ minh triết mỏi
mệt. Thơ Việt Nam
hiện đại có thể tìm thấy một lối thoát bắt đầu từ những khúc nhạc trầm, từ
những hồn ngây dại chăng? Sẽ còn bao nhiêu lối thoát nữa và của ai và bao
giờ?
Ta có
thể tìm thấy trong tập thơ này những ngôn từ thật lạ lùng, thật ngu ngơ, thật
ma mị, ý thơ sáng rõ mà lại chập chờn thực ảo. Và tình như lửa ngục, như nước
hiền, như gió vô tình thoảng qua. Và trên hết là sự chiêm nghiệm lắng sâu nỗi
buồn của một trí tuệ đã bất ngờ nhìn thấy cái chết tàn rữa thể xác trần tục
và mầm tái sinh trường cửu những linh hồn thánh.
Vượt
lên sự mưu danh cho chính mình. Khúc nhạc trầm hồn ngây dại
là tuyên ngôn mới nhất của Bàng Sĩ Nguyên về nghệ thuật, nếu không phải hay
là chưa thể dành cho trùng điệp đám đông thì, cũng đích thực dành cho chính
ông và những người mấy chục năm nay lặng lẽ đứng sát bên cạnh ông.
Nguyễn Đình
Chính
|
Thursday, July 25, 2013
Một khúc nhạc trầm
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment