TỰ DO, VỚI MỘT SỐ NGƯỜI LÀ BI KỊCH |
Văn Chinh |
|
Thoạt
tiên chỉ vì tò mò, cũng còn vì tôi muốn tham khảo thêm xem mỹ học của
cái Khác / cái Tục của phương Tây người ta quan niệm thế nào để nghĩ cho
thấu đáo trước một số tác phẩm gần đây tôi cho là có vấn đề về mặt thẩm
mỹ. Nhưng rồi, khi đọc đến trang 96 Luận văn thạc sỹ Đỗ
Thị Thoan – Nhã Thuyên, tôi bị sốc như có ai động đến mồ mả của nhà
mình. Ở đấy, Nhã Thuyên ngợi ca là “một trong những bài thú vị nhất của
tập Khi kẻ thù ta buồn ngủ” (Lý Đợi), bài Mới khai quật được bản sắc văn hóa Việt Nam. Lý Đợi viết:
Bản sắc văn hóa Việt Nam
Nó giống như một cái xác chết thối
Giống như một cái gối cũ
Như một vết thương bưng mủ
Được lôi lên từ vũng bùn
Đầy mùi xú uế
Bản
sắc văn hóa Việt Nam là một kiến tạo nỗ lực hàng ngàn năm của dân tộc
này, lớp cha trước lớp con sau, một nỗ lực giải trung tâm, để không bị
Bắc hóa Tây (Ấn/ Pháp) hóa mà làm nên một nền văn hóa đủ trở thành niềm
tự hào cho bất cứ dân tộc nào. Chỉ có vài chục năm sau Cách mạng Tháng
Tám, khái niệm Đông Dương (indocinese)
mà người Pháp áp đặt với một hứa hẹn đầy mị dân, lấy Hà Nội làm thủ phủ
của toàn xứ, đã được in trên tiền nhằm vĩnh cửu hóa nó, nhưng văn hóa
Đại Việt đã thau chua rửa mặn, lặng lẽ đưa nó ra khỏi tiềm thức mà như
tôi được biết, không có bất cứ văn bản nào của Nhà nước bảo làm việc ấy.
Chỉ một ví dụ, trong tứ thánh bất tử của Đại Việt, có thánh Tự do yêu
đương / hôn nhân (Tiên Dung Chử Đồng Tử) và Mẫu Liễu Hạnh là hai thánh
tuyệt nhiên không có trong hệ thống thánh thần Hoa Hạ lấy Tam tòng để áp
chế phụ nữ vào trung tâm là đàn ông.
Văn
hóa dân tộc vừa là cái nôi vừa là bầu sữa/ nồi cơm Thạch Sanh nuôi lớn
mọi con dân về tâm hồn, tâm linh và vì vậy nó luôn có xu thế thiêng hóa.
Vì vậy, bất cứ ai là người
Việt, khi nghe Lý Đợi nói thế, lại nghe Nhã Thuyên ca ngợi thế, thì đều
có cảm giác bị xúc phạm, với một chuẩn mực nào đó, nó có thể bị xem như
nhảy bàn độc.
Khoa
học và văn chương giống nhau ở chỗ cùng phát hiện cái mới về/ cho (phục
vụ) con người. M. Bakhtin có hẳn một công trình khủng thi pháp tiểu
thuyết hình thành trên cơ sở trình thức carnaval giả trang, Nhã Thuyên
có ghi trong danh mục sách tham khảo nhưng chỉ là để cho ra vẻ, chứ
không hề đụng đến nó. Vì đụng đến nó thì còn gì để nói nữa, về giễu
nhại, về trung tâm và bên lề? Có thể biện minh rằng, không thể đòi hỏi
nhiều hơn về hàm lượng khoa học ở một Luận văn Thạc sĩ. Vâng, nhưng ít
nhất nó phải có một gram cũng được, là khoa học, là phát minh cái gì chứ
không phải là cái xe đạp.
Mặt
khác, sau khi đọc xong Luận văn của Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan, tôi không
thêm được gì về mặt nhận thức các phạm trù trung tâm/ bên lề, giễu nhại /
nghiêm trang, quyền lực / phản kháng…Cũng không phải nhờ Lacan hay
Foucault chợt trở nên thời thượng tôi mới biết đến chúng. Mà
chính là nhờ Kinh Dịch, nhờ cụ Lê Quý Đôn cắt nghĩa hữu và vô, (cái hữu
có được là nhờ có cái vô, âm sở dĩ là âm vì đặt bên canh cái dương),
nhờ GS Cao Xuân Huy, cái tư duy chủ toàn đặc hữu phương Đông do ông chỉ
ra, nó khác với tư duy chủ biệt phương Tây, coi mình là chủ còn tất tần
tật là khách thể. Cái gốc chủ khách, trung tâm bên lề là từ phương Tây,
chư vị cần điều chỉnh sao đó thì cứ việc; chứ gốc tư duy Đại Việt của
chúng tôi là trong tôi có bạn, trong ta có người:
Ăn mày là ai ăn mày là ta
Đói cơm rách áo thì ra ăn mày
Với chúng tôi, không cái gì là bất biến:
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa
Như
thế là, trước cả khi tiếp xúc với Kinh Dịch, với cụ Lê, cụ Cao đã có
văn hóa Đại Việt giúp tôi sống tự do trong rất nhiều ràng buộc mà Montesquieu gọi là khế
ước xã hội. Thằng Mõ, anh Hề (chèo), chú Tễu…Những đánh ghen, hứng dừa,
đám cưới chuột trong tranh dân gian, những phù điêu mô tả phồn thực
ngay cửa đình là nơi chốn tôn nghiêm, những tượng giao cấu trên mặt
trống đồng cổ…chính là những dạng thức giải thiêng. Và đặc biệt các
trình thức lễ hội đậm đà dục tính. Hội Phết ở Hiền Quan (Phú Thọ), Xoan
ghẹo (gái) là lễ thức hát cửa đình. Có một lễ hội giải trung tâm của dân
tộc này mà nếu biết, tôi chắc Michen Foucault – người mà Nhã Thuyên bảo
rằng một trong mấy nhà tư tưởng quan trọng nhất của nhân loại sẽ bớt
lời hơn. Do “trung tâm” - ở đây là quyền lực hương xã, biết rằng nhiều
người phải chịu ấm ức do thiết chế hôn nhân ngoại nhập gây ra, mới tổ
chức một lễ hội tắt đèn để giải trung tâm. Sau một ngày cúng tế, đêm
làng ra lệnh tắt hết đèn lửa để cho những kẻ yêu nhau mà không lấy được
nhau, có thể gặp nhau suốt đêm và muốn “nói với nhau cái gì thì nói” hôm
sau về nhà anh chồng (chị vợ) cấm có được phàn nàn, phàn nàn là làng
ngả vạ!
Nhân
tiện xin nói ngay, rằng tôi vừa nói tục đấy, nhưng là nói “tục” theo
cách của người mình là không làm người nghe phải ngượng. Ấy là mỹ học về
cái tục của dân tộc này, một mỹ học bất thành văn hay nhiều nhất chỉ có
một câu minh triết (người dại để trôn người khôn xấu hổ) nhưng trở
thành khế ước xã hội. Câu ca dao, được hát theo điệu ru con sau đây lại
vừa có mỹ học của cái Tục vừa có mỹ học của cái Khác:
Hôm nay bố nó đi cày
Có sang một cái ban ngày thì sang
Chính
thi pháp độc đáo hiện đang được dán thêm nhãn mới là hậu hiện đại (!)
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương là sáng tác trên hệ thống lý luận Mỹ học của cái
Tục/ cái Khác:
Vành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Trở
lên, tôi có nói kỹ về văn hóa Đại Viêt, tôi dùng chữ Đại Việt để nói về
một thời kỳ lịch sử dân tộc ta Độc lập và còn chưa hoặc chỉ tiếp nhận
văn hóa khác nó trong tư thế chủ động (hội nhập) chứ chưa / không bị áp
chế. Và nó có khoa học (nguyên lý) của nó, chứ không hề mờ mịt và như
ếch ngồi đáy giếng như Nhã Thuyên, Bùi Chát, Lý Đợi. Một trong những cái
bìa tập thơ do nxb Giấy Vụn photocoppy có vẽ con ếch ngậm miệng, tôi
nghe nói vậy, nếu có vậy thì nó “đâm ra” có nghịch lý ẩn dụ. Nguyên lý
của văn hóa ấy là dân chủ (đặt giải thiêng bên cạnh nơi thờ phụng, bên lề sống hồn nhiên cạnh trung tâm, thơ trào phúng “nhắc khéo đôi vần” trên báo Nhân dân, Từ điển tra ngược trên báo Tiền phong, tranh đả kích tranh vui trên trang 16 báo Văn nghệ …là sinh tồn trên nguyên tắc này) và tự do sáng tạo, tự do sống bên cạnh những giáo lý mà nó không thể không du nhập do bị cưỡng chế và cuối cùng, nguyên tắc uyển ngữ
nhằm đẩy chân trời sáng tạo ra đến vô cùng. Nếu như cả nhà nghiên cứu
Nhã Thuyên lẫn các tác giả Mở Miệng cứ nhất thiết gọi sự vật bằng tên
của nó, thì nhiều nhất, họ chỉ có thể biến danh từ thành động từ hoặc
ngược lại; còn Hồ Xuân Hương và rất nhiều nhà thơ khác, họ có thể sáng
tạo đời đời và không thể vơi cạn với chỉ một hai sự vật!
Nhã
Thuyên Đỗ Thị Thoan không giấu tham vọng được là người nổi tiếng khi
làm luận văn này, chị dẫn lời Nguyễn Quốc Chánh: “Công việc sáng tác bên
lề hay ngoài luồng hiện nay ở Sài Gòn và hải ngoại, nếu có ai nhìn thấy
nó như nó đang là, thì con mắt sắc của lý thuyết sẽ ló ra.” (trang 11).
Và, hình như câu quảng cáo xà phòng cũng gây áp lực cho chị, “đã trắng
còn phải trắng như tide” nên Nhã Thuyên luôn sấn sổ vào những nơi không
phải chỗ của khoa học và văn chương, là chính trị, sấn sổ để sắc sảo cho
bằng được. Nhã Thuyên khẳng định một cách áp chế và trong khi kịch liệt
chống đối cái trung tâm / quyền lực/ chính thống để cổ súy cho cái Khác
thì chị lại nói về những cái khác so với cái mà chị chú tâm, coi là
trung tâm mới, một cách miệt thị vừa cay nghiệt vừa giễu nhại: “Nó (Văn
học chính thống) trở nên già cỗi và trở thành lực cản.”Những nội dung
như thế có thể tìm thấy nhan nhản, đặc biệt vô lý khi có hẳn một toan
tính của tác giả nhằm nhồi nhét vào thành ngữ kiêu hãnh của sỹ khí dân
tộc là “sỹ phu Bắc Hà” những tính từ mạt rệp, ươn hèn, lão hóa, đơn
trị…Có thể tóm gọn luận văn của chị vào một mệnh đề, tất cả những cái
khác Mở Miệng là vứt đi, chỉ trò chơi/ nghịch thơ, thơ rác, thơ dơ của
nhóm Mở Miệng mới là Mới, sẽ là Trung tâm Mới của nền văn học nước nhà.
Như thế là phản dân chủ, phản tiến bộ và do đó, phản khoa học. Một quan
niệm chật chội như thế về dân chủ, về văn học sao có thể tạo điều kiện
để đa dạng phong phú hóa một nền văn học, trong đó giọng điệu của người
này phải khác không những người kia mà lại còn phải khác ngay chính anh
(chị) ta ở tác phẩm trước?
Cũng
do thiên kiến một cách hằn học, hách xằng, Nhã Thuyên xổ toẹt những nỗ
lực làm mới, làm khác của các nhà văn trong Hội Nhà văn. Cụ Nguyễn Tuân
mỗi khi không có gì viết mà muốn viết đều hình dung tờ giấy trắng trước
mặt là một pháp trường, nó hủy diệt con người sáng tạo ở cụ. Đó là cảm
giác có thật. Nhiều đồng nghiệp mà tôi biết có quan niệm giống tôi: “Khi
chưa có phát hiện mới về bí mật chung của con người, thì cách phụng sự
văn học tốt nhất là đừng viết gì để trở thành gấy vụn.” Đó là chưa kể
nhiều, rất nhiều tác phẩm có tư tưởng nghệ thuật như một phản biện xã
hội về cơ chế, về những cái duy ý chí, cái ấu trĩ lỗi thời và các tác
phẩm có giá trị như một hồ sơ chống tham nhũng, chống bất công để bảo vệ
Con Người được NXB Nhà nước xuất bản và giới thiệu; có những cuốn còn
được trao Giải thưởng (thi tiểu thuyết) của Hội Nhà văn Việt Nam (Luật đời, Cha và con của Nguyễn Bắc Sơn; Gió chuyển mùa của Đỗ Thị Hiền Hòa…) Giải thưởng Nhà nước (Thời xa vắng của Lê Lựu) Giải thưởng Hồ Chí Minh (Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng)…
Ở
trên tôi có nói về nguyên tắc uyển ngữ trong đời sống ngôn ngữ, nó tuân
thủ lệ luật không làm xấu hổ người khác. Trong đời thường, khi ta khen
cô bạn gái có cái áo đẹp, cô ấy biết ta khen lấy lệ, bèn đùa lại rằng,
em thì gỉ gì gi cái gì cũng đẹp. Thì cả đám bạn đã biết nghĩa của “cái
vắng mặt” nhưng không ai bị xấu hổ. Vì xấu hổ có sứ mệnh quan trọng
trong chân kiềng của đạo đức xã hội. Vladimir Soloviev, một thiên tài
Nga (1853 – 1900) xác lập chân kiềng ấy, nó gồm thuộc tính biết xấu hổ,
lẽ phải và niềm tin tôn giáo. Tính biết xấu hổ là một cơ chế tự nhiên và
vô cùng nhậy cảm, là thứ không nên sử dụng thường xuyên, cái gì bị sử
dụng thường xuyên cũng bị cùn mòn, bị trơ ra và một khi cơ chế mang phẩm
tính ấy bị xơ cứng đến độ không còn bị xấu hổ nữa thì vô cùng nguy hiểm
trước là cho nó sau nữa thì cộng đồng phải gánh chịu. Hãy hình dung một
người điên lõa lồ đi giữa phố sẽ gây cho xã hội những tai họa gì, như
chúng ta đã biết, mạng sex đã gây những gì cho tai họa con người, những
bà mẹ 9 tuổi, những hành vi loạn luân…
Thực
ra, chẳng đợi đến khi có internet người ta mới nói tục; trong quán bia,
trên giường vợ chồng hay thậm chí giữa những người bạn, người ta vẫn
hay văng tục như một thứ xả stress và nói cho công bằng, không phải nó
không tạo ra khoái cảm. Và thực tế là, khi có internet, có blog cá nhân
người ta mới văng ra vô tội vạ, nó giống như sau một ngày đông cứng
trong các bộ trang phục, khi bước vào phòng tắm, chúng ta trút bỏ tất để
hưởng cảm giác thoải mái nhẹ nhõm. Nhưng, một khi cái tục cái nhảm nhí
và thói vô chính phủ bị lạm dụng, nó thành ngay một thứ bệnh; là bệnh
của kẻ yếu mà ra gió, của những kẻ chưa hoàn tất chương trình giáo dục
phổ thông đã thành người tự do vô điều kiện, chẳng hạn Bùi Chát sống bám
vào tiền do Lý Đợi kiếm mà lại dám nói về tự do và dân chủ…Cũng có một
thực tế khác, vì người văng tục luôn tự biết đó là cái “hư”, cái “mất
nết” nên thường là các bạn trẻ sử dụng một cái nickname và tạo nên một
sân chơi giữa các mặt nạ với nhau. Vì biết như thế, những người am hiểu
và lịch lãm, luôn chỉ coi những entry trên mạng là các tiền văn bản; từ
điển Wikipedia luôn coi những giải thích trong nó là văn bản mở và mời
gọi các netizen bổ sung, chỉnh lý; như ở Việt Nam, chúng ta coi là một
dư luận, một lời đồn khi thông tin chưa được kiểm chứng. Bằng vào luận
văn đang bàn, tôi biết nhóm (nghịch) thơ Mở Miệng chủ yếu đăng thơ trên
các website tienve, damau…khi xuất bản dưới dạng photocoppy được gọi là
nxb Giấy Vụn chỉ vài chục bản. Như thế, có thể nói, những phản kháng,
những mất vệ sinh môi trường văn hóa của nó còn ở trong phạm vi hẹp, nơi
phần lớn cư dân là các nickname – mặt nạ. Tôi lập website cá nhân vào
loại sớm, lại làm báo mạng mấy năm, nhưng tuyệt nhiên không đọc chúng,
nhất là không bàn về chúng, tôi cố giữ cho không gian sống được trong
lành, trước hết vì mình, sau nữa là vì vợ con cháu chắt bạn bè. Tôi nhớ
khi phẫn chí vì thi trượt, cụ Tú Xương có cay cú viết: Tế đổi thành Cao mà chó thế/Tiệp trông ra Kiện ối giời ơi thì cụ Nguyễn Khuyến có mỉm cười nhắc nhỏ: Rằng hay thì thật là hay/ Đem giời đối chó lão này không ưa. Cụ
Nguyễn, bằng vào chỉ một bài văn sách thi Đình đã cho thấy là một bậc
uyên bác sắc sảo trong tư duy khoa học chính trị. Cụ không thể chưa đọc
Lê Quý Đôn, rằng “trời và các vì tinh tú chỉ do khí tạo thành” nhưng
biết rằng phải để giời đấy làm một mái che an toàn cho đạo đức xã hội. Cần nhắc lại rằng, khi Nietzsche
(1844 – 1900) tuyên bố “Thượng đế đã chết” thì đồng thời cái búa của
ông cũng đập tan tành con đê niềm tin của nhân loại, khiến lòng tham và
cái ác trong mỗi cá thể được “tự do” như nước lũ tràn vào đời sống của
mỗi cá thể. Không phải ngẫu nhiên mà Hitler lại coi Nietzsche là bậc
tiền bối mặc dầu ông là người chống chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa
quốc gia. Đấy là một cái họa của triết nhân vậy. Cho nên, tôi đứng về
phía cụ Nguyễn Khuyến, cứ để giời, để cái thiêng lại đấy cho tôi. Có
thể mỹ cảm của tôi bị chê là cổ hủ, không hậu hiện đại, nhưng xin cho
tôi cố thủ trong Mỹ học về cái Tục/ cái Khác của dân tộc tôi.
Còn nếu chị Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan coi thơ rác thơ dơ của nhóm Mở Miệng là một thực thể, một đối tượng cần nghiên cứu thì đó là việc của chị, quyền của chị. Nhưng một khi chị biến nó thành luận văn, để quảng bá nó, truyền bá cho nó, truyền bá cho nó một cách hằn học và cưỡng chế tôi rồi nhất thiết coi cái tục cái nhảm nhí của Mở Miệng là trung tâm của văn học tương lai nước nhà thì chị đã trở thành lực cản cho cái mà tôi coi là mỹ cảm và văn học lành mạnh rồi. Như thế là chị xúc phạm/ làm mất tự do quan niệm của tôi rồi. Vâng, nguyên tắc tối thiểu của tự do là tự do của người này không thu hẹp, không làm mất tự do của người khác. Nếu ngược lại, lập tức sẽ bị tai vạ, ít nhất là một cái huých tay trên xe bus; nhiều ra thì bị cả cộng đồng la mắng. Người ta bảo, tự do, với một số người là bi kịch chính là bởi vậy. |
No comments:
Post a Comment