Một hiện tượng, tưởng rằng đã chết khi ông Osho tức 
Bhagwan Shree Rajneesh bị chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ trục xuất về Ấn 
Độ vào năm 1987, nay đang có những chỉ dấu sống dậy, không phải chỉ 
trong cộng đồng Oregon, Hoa Kỳ như trước đây mà là trong cộng đồng Việt 
Nam ở hải ngoại và có thể ở cả trong nước qua một số sách do Osho giảng 
được Sư cô Thích nữ Minh Tâm và hội Osho International Foundation dịch 
ra Việt ngữ.
Một số sách đó được bầy        bán tại các nhà sách ở quận 
Cam Hoa Kỳ và quảng bá qua liên mạng        Internet.  Họ cũng rao quảng
 cáo trên một vài nhật báo xuất bản ở miền Nam        California, kêu 
gọi đóng góp tiền ấn tống hai quyển sách Bát Nhã Tâm Kinh        và Kinh
 Kim Cương giảng giải.
Nhằm tìm hiểu hiện tượng này, người viết đành phải bỏ thì giờ ra đọc 
một        số tác phẩm của Osho qua các ấn bản giấy và ấn bản điện tử do
 thân hữu hội        Osho gửi đến. Càng đọc, người viết càng cảm thấy có
 bổn phận phải viết ra        đôi lời để những độc giả, hoặc không biết 
hay đã biết về Osho, có cái nhìn        bao quát hơn về những khía cạnh 
khác của ông này. 
Mặc dù đã dựa chủ yếu vào các nguồn căn bản cho phần tiểu sử Osho, 
người        viết thấy cần phải đưa thêm vào những tin tức khả tín nhất 
về ông Osho,        nhằm mô tả hình ảnh Osho một cách trung thực. 
Bài viết được chia làm hai phần, phần đầu viết về con người của Osho 
và        phần sau viết về một vài tác phẩm của ông giảng dạy về đạo 
Phật, như Kinh        Kim Cương và Bát Nhã Tâm Kinh.
PHẦN I:  THÂN        THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Tên thực của Osho là Acharya Rajneesh, sau đổi là Bhagwan Shree 
Rajneesh        (1931-1990).  Ông sanh ngày 11 tháng 12 năm 1931 tại 
làng Rajneesh Chandra        Mohan tỉnh Kuchwara, miền Trung Ấn Độ. Vào 
cuối đời ông đổi tên là Osho.         Song thân ông theo đạo Kỳ Na 
(Jainism), nhưng bản thân ông chưa từng gia        nhập một tôn giáo nào
 trong suốt quãng đời của ông.  Từ lúc còn bé, Osho        đã tỏ ra là 
một con người có cá tính độc lập, cương quyết, nổi loạn và        luôn 
luôn bảo hộ ý kiến của mình.  Theo sách của ông ghi lại, ông đã đạt     
   định “samadhi” và chứng ngộ vào ngày 21 tháng 3 năm 1953 lúc ông 21 
tuổi.         Rajneesh đậu bằng Cao học Triết từ viện đại học University
 of Saugar.  Sau        đó ông dạy Triết học tại viện đại học University
 of Jabalpur trong chín        năm.  Cùng thời gian đó ông đi du thuyết 
nhiều nơi và trở nên một nhà lãnh        đạo tôn giáo. 
Năm        1966, ông từ nhiệm việc giảng dạy tại viện đại học 
Jabalpur và tập trung        các nỗ lực vào việc giáo huấn cho các đệ tử
 theo ông.  Ông thường tiếp các        nhóm tu học và cá nhân ở căn hộ 
apartment của ông ở Bombay, ông hành xử        như là vị lãnh đạo tâm 
linh của họ.  Phần lớn các đệ tử của ông đến từ Âu        Châu và đã ở 
Ấn từ vài năm trước.
Năm 1974, Osho từ bỏ Bombay đến thành phố Pune (Poona), miền Nam Ấn 
thiết        lập trung tâm tu học.  Có nguồn tin từ những người chống 
đối ông cho rằng        việc ông rời Bombay là do những sự chống đối của
 cư dân địa phương.  Thực        tế việc đến Pune là do nhu cầu phát 
triển cơ sở hầu thoả mãn chỗ ăn ở và        tu tập cho các đệ tử.  Trung
 tâm tu học mới rộng sáu mẫu, nằm ở ngoại ô        thành phố Pune.  
Người ta ước tính có tới năm mươi ngàn người Tây Phương        đã đến 
đây tu học để tìm cầu giác ngộ với ông.  Vào năm 1979, ông nhìn        
thấy phong trào tu học theo ông như là một con lộ nhắm hướng bảo hộ dòng
        giống sinh sản mới cho nhân loại.  Ông nói: “Nếu chúng ta không 
thể tạo ra        những người mới trong hai mươi năm tới, thì nhân loại 
sẽ không có tương        lai.  Cuộc tàn sát kiểu holocaust trên quả địa 
cầu chỉ có thể được ngăn        chặn nếu chúng ta cho ra đời những con 
người mới”. 
Osho dạy một loại thiền mới, một loại thiền động (dynamic meditation)
 mà        ông lấy từ các đạo Kỳ Na giáo (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), 
Phật Giáo,        Lão Giáo (Taoism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và 
một vài tư tưởng        triết học nổi tiếng đương thời, rồi pha trộn 
thành của mình.
Năm 1980, ông bị một người theo Ấn Giáo tấn công bằng dao trong khi 
ông        đang thuyết giảng.  Vết thương không nặng nhưng do sức khoẻ 
của ông vốn        yếu kém từ những năm trước đây nay trở nên tồi tệ 
hơn.  Một vài đệ tử thân        cận với ông cho biết ông thường hay đau 
yếu và mắc phải hội chứng mệt mỏi        (Chronic Fatigue Syndrome CFS),
 bị bệnh tiểu đường loại 2, bệnh đau bắp        thịt, bệnh cao áp huyết 
và thường xuyên dùng thuốc Valium. 
Năm 1981 ông rời Ấn Độ qua Hoa Kỳ chữa bệnh.   Các đệ tử của ông mua 
một        nông trại rộng 65,000 mẫu tại Big Muddy Ranch, Dalles, Wasco 
County, bang        Oregon với giá 6 triệu dollars.  Nông trại này sau 
đó được đổi tên là        Rajneeshpuram .  Ông đã thiết lập được một 
làng tâm linh tu học rộng lớn        cách thị trấn Antelope 12 miles với
 một giảng đường rộng 88,000 square        foot, một sân bay nhỏ và 4000
 hội viên thường trú, một số được trang bị        súng phòng thủ.  Đời 
sống trong làng bị nhiều áp lực từ ban lãnh đạo của        Oshọ cho đến 
chính quyền địa phương.  Nhiều cư dân địa phương xung quanh        sống 
lâu đời ở đây đã dị ứng với những người mới đến này.  Họ chống đối sự   
     hiện diện của nhóm người do ông lãnh đạo, và vì vậy đã có những sự 
va chạm        lẫn nhau.  Thành phố từ chối cấp giấy phép xây cất và ra 
lệnh triệt hạ        những cơ sở đã xây không có giấy phép.  Khi các 
viên chức chính quyền địa        phương ngăn cản việc xây cất không có 
phép, thì văn phòng chính quyền liền        bị nhóm người lạ mặt ném 
chất nổ. 
Do hội đồng thành phố tiếp tục từ chối cấp giấy phép xây cất, nên các đệ tử của Osho bầu người của mình vào hội đồng thành phố. Tân hội đồng thành phố lãnh đạo bởi phe thân Osho, đổi tên Antelope thành City of Rajneesh.
Do hội đồng thành phố tiếp tục từ chối cấp giấy phép xây cất, nên các đệ tử của Osho bầu người của mình vào hội đồng thành phố. Tân hội đồng thành phố lãnh đạo bởi phe thân Osho, đổi tên Antelope thành City of Rajneesh.
Hai phụ tá cao cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị 
truy tố        liên quan đến một số tội ác, bao gồm cả tội dự mưu ám sát
 vị luật sư công        tố Charles Turner và vị bác sĩ riêng của Osho.  
Hai viên phụ tá này bị kết        tội 5 năm tù ở với tội danh âm mưu ám 
sát viên luật sư công tố liên bang        Charles Turner, trong âm mưu 
ngăn chặn việc đóng cửa nông trại.  Một số        phụ tá khác của Osho 
chạy thoát về Thuỵ Sĩ, ở đó họ còn nắm giữ một số        trương mục ngân
 hàng cho tổ chức Osho. 
Năm 1983, thư ký riêng Sheela Silverman của Osho thay mặt Osho tuyên 
bố sẽ        có đại cơn tàn phá địa cầu trong khoảng từ 1984 và 1999. 
Các thành phố        Tokyo, New York, San Francisco, Los Angeles, Bombay
 sẽ bị xoá tên khỏi bản        đồ thế giới.  Điều tiên đoán này không 
xảy ra và người ta cũng nghi ngờ        điều tiên đoán đó không phải của
 Osho. 
Theo tài liệu lưu giữ tại Quốc Hội Hoa Kỳ Congressional Record và ghi
 lại        trong quyển sách Germs, New York Times reporter Judith 
Miller, [Simon &        Schuster Book] cho biết một số đệ tử của 
Osho là thủ phạm gieo rắc vi        khuẩn Salmonella tại một số nhà hàng
 bán salad bar nhằm đe doạ cư dân ủng        hộ dự án luật ngăn cấm các 
hoạt động của Osho. Trong vụ này có 751 người        nhiễm vi khuẩn 
Salmonella. Sự cố này đã gây chấn động ở Hoa Kỳ vào năm        
1984 khi được các đài truyền hình quốc gia như ABC News, Lehrer NewsHour
        of Public Television loan tải trong ngày 1 tháng 10 và trên tuần
 báo Time        Magazine, số ra ngày 3 tháng 10, với tựa đề là 
"America's First        Bioterrorism Attack."            [01],                [02],         [03] 
Lo sợ bị chính quyền áp dụng biện pháp mạnh, một số đệ tử của Osho đã
 thu        xếp cho ông di chuyển đến thành phố Charlotte, bang North 
Carolina.  Nhưng        báo Origonian cho biết là Osho đã được các đệ tử
 đưa đi trốn qua vùng hải        đảo, biển Caribbien bằng một máy bay 
riêng của ông, nhưng bị chận bắt khi        máy bay dừng tiếp tế nhiên 
liệu tại Charlotte, North Carolina.  Osho bị        bắt giữ vì đã liên 
tiếp vi phạm luật di trú Hoa Kỳ.  Ông bị kết tội môi        giới làm giả
 hôn nhân cho những đệ tử mang quốc tịch Ấn kết hôn với những        đệ 
tử mang quốc tịch Hoa Kỳ để hợp pháp hoá việc định cư.  Osho cũng bị    
    truy tố về tội khai man trên những giấy tờ di trú. 
Năm 1987 Osho nhận tội, bị phạt 400 ngàn Mỹ kim và trục xuất khỏi Hoa        Kỳ. 
 Ông trở về lại Pune (Poona) Ấn Độ, ở đó sức khoẻ của ông trở nên       
 trầm trọng. Osho quyết định khai tử tên Rajneesh (có lẽ là để dấu khuôn
        mặt thật của ông bị lộ diện ở Hoa Kỳ) và khai tên mới là Osho.  
Ông từ gĩa        cõi đời ngày 19 tháng 1 năm 1990.  Giấy khai tử ghi 
nguyên do tử vong là        bệnh trụy tim.
Vào thời kỳ cao điểm, có khoảng 200 ngàn hội viên và 600 trung tâm tu
 học        trên thế giới.  Osho bị nhiều nhóm chống đối coi ông như là 
một giáo phái        ma quỷ (an evil).  Ông cũng được họ gọi là “sex 
guru” vì ông quảng bá mạnh        mẽ về sex.  Ông cho rằng “sự        thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành chiếc thang mà qua        đó đạt tới ngôi đền của tình yêu",        rằng "dục        bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm        thức, đạt tới định samadhi.”         Ông chỉ bày kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài lâu.  Xin trích đoạn: “… Việc
        thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng ngắn; 
hơi thở        người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó càng kéo
 dài hơn. Và việc        giao hợp càng kéo dài lâu, thì càng nhiều khả 
năng từ dục tạo ra cánh cửa        tới samadhi, một kênh cho siêu tâm 
thức. …. Vào lúc giao hợp chúng ta ở        gần với Thượng đế. Thượng đế
 tồn tại trong chính hành động sáng tạo cho        sinh thành nên cuộc 
sống mới, và do vậy thái độ của người ta nên giống như        thái độ 
của người đi vào chùa chiền, đền đài hay nhà thờ. Vào lúc cực        
khoái chúng ta ở gần nhất với đấng Tối cao  (From        Sex To Super-Consciousness – Osho International Foundation)
Osho phát triển một dạng thiền năng động mới mẻ, được nhiều người 
biết với        tên Dynamic Meditation, thường khởi đầu với các hoạt 
động mạnh mẽ về thể        chất như nhảy múa với âm nhạc kích động, sau 
đó là thiền im lặng.  Phương        pháp thiền này, theo Osho, có thể 
phát triển đến một trạng thái “không        tính” và đạt đến giác ngộ.  
Hành giả sau đó sẽ trở thành “no past, no        future, no attachment, 
no mind, no ego, no self” 
Trong thập niên 1980, các đệ tử của Osho thường mặc y phục toàn màu vàng        
cam đậm (có khi màu nâu đỏ), không phải chỉ có áo choàng. Vì vậy, họ được gọi là "Orange People". Tên gọi nầy khá phổ thông trong thời kỳ đó. Osho ban tước hiệu mới cho đệ tử. Nam được gọi là “Swami” và nữ được gọi là “Ma”. Mặc dầu đa số đệ tử sống trong môi trường khiêm tốn và đơn giản, nhưng Osho, ngược lại, sống trong xa hoa lộng lẫy, tư thất ông ở có máy điều hoà không khí, có bồn tắm nước nóng. Ông có 27 chiếc xe hơi mang hiệu Rolls Royces do các đệ tử hiến cúng. (Có sách nói 93 chiếc)
cam đậm (có khi màu nâu đỏ), không phải chỉ có áo choàng. Vì vậy, họ được gọi là "Orange People". Tên gọi nầy khá phổ thông trong thời kỳ đó. Osho ban tước hiệu mới cho đệ tử. Nam được gọi là “Swami” và nữ được gọi là “Ma”. Mặc dầu đa số đệ tử sống trong môi trường khiêm tốn và đơn giản, nhưng Osho, ngược lại, sống trong xa hoa lộng lẫy, tư thất ông ở có máy điều hoà không khí, có bồn tắm nước nóng. Ông có 27 chiếc xe hơi mang hiệu Rolls Royces do các đệ tử hiến cúng. (Có sách nói 93 chiếc)
Osho dạy rằng Thượng đế trong mọi người và hiện diện mọi nơi chốn.  
Không        có gì ngăn cách giữa God và Not God.  Ông thừa nhận Jesus 
Christ đã giác        ngộ và tin tưởng là Jesus còn sống sau khi bị đóng
 đinh trên cây Thập tự        giá và trốn qua Ấn Độ, ở đó Jesus chết lúc
 112 tuổi.
Osho nói rằng ông không chỉ định người kế vị khi ông qua đời, vì tất 
cả        các đệ tử của ông đều sẽ là những người kế vị ông.  Tuy nhiên,
 trước khi        chết, ông đã chỉ định một hội đồng gồm 21 người điều 
hành trung tâm tu học        Pune.  Trung tâm này đã được phát triển từ 6
 mẫu thành 32 mẫu. Ngày nay họ        điều hành 20 trung tâm trên khắp 
thế giới và trở thành một tổ chức kinh        doanh với lợi tức hàng năm
 lên đến nhiều triệu Mỹ kim.  Ảnh hưởng chính        của Osho bây giờ 
chính là những sách viết của ông.  Cũng nên biết hai phụ        tá cao 
cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị kết án 5 năm tù      
  ở Oregon hồi năm 1995, đã được phóng thích trước thời hạn mãn tù vào 
tháng        6 năm 1998 và bị trục xuất về Anh Quốc.
PHẦN 2:         ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN ĐẠO
Nói rằng ông Osho là một Đạo Sư và những lời giảng dạy của ông là 
Giáo lý        thì không đúng vì tất cả những lời giảng của ông không có
 gì mới lạ, chỉ        là sự góp nhặt rồi pha trộn từ một số giáo lý của
 các đạo Kỳ Na giáo        (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), Phật Giáo, Lão
 Giáo (Taoism), Thiên Chúa        Giáo (Christianity) và một vài tư 
tưởng triết học đương thời.  Ông bắt đầu        sự nghiệp bằng việc 
giảng dạy môn Triết học tại đại học, rồi từ đó chuyển        qua dạy về 
khoa Tâm linh cho những đệ tử và những người theo ông.  Thị        
trường khoa Tâm linh học ở Ấn Độ thời đó rất cạnh tranh và ông là một   
     người giỏi về tiếp thị.  Ông đã tung ra thị trường một sản phẩm mới
 nhiều        hấp dẫn.  Đó là những lời hứa hẹn “giác ngộ và giải thoát”
 bằng một        đường lối rất quyến rũ là con đường tình yêu và tình 
dục; mà ông tin rằng        sẽ được đón nhận ở cả phương Tây lẫn phương 
Đông. 
Mặc dầu là một người độc tài, độc tôn, độc đoán, nhưng ông lại là một
 nhà        thuyết giảng có tài, có mãnh lực quyến rũ và thuyết phục 
người nghe, người        đọc.  Văn tiếng Anh ông viết giản dị, sáng 
sủa.  Ông thuyết giảng rất        nhiều và thuộc đủ mọi đề tài. 
Với Phật Giáo, ông ca ngợi đức Phật, dùng những thuật ngữ nhà Phật, 
nên        người đọc, nhất là những Phật tử mới vào đạo hay những người 
có ý muốn        hướng về một nền đạo học Đông Phương cảm thấy thích thú
 và gần gũi với        ông.  Ông nói thao thao bất tuyệt về kinh Kim 
Cương, Bát Nhã Tâm Kinh và        Kinh Pháp Cú.  Ông thuyết giảng về Vô 
Ngã và Không Tánh của Phật Giáo.         Ông cũng giảng và đề cao nhiều 
pháp thiền định khác nhau của nhiều tôn        giáo, như của Mật tông: 
Kundalini, Mandala và Tình Dục, lẫn của cả Thiền        Minh Sát 
Vipassana của Phật giáo Nam Tông, cũng như thiền quán âm thanh        
của kinh Lăng Nghiêm v... v… Ông có lối diễn giảng như hỏa mù, vừa ca   
     ngợi, vừa xuyên tạc đạo Phật (một cách tinh vi), lại vừa lợi dụng 
uy tín        của đức Phật, dùng đức Phật như một cái dù che; nhưng thực
 chất bên trong        nôị dung những điều ông giảng lại chứa đựng những
 tư tưởng đối nghịch với        tư tưởng nhà Phật. Đây chính là điều mà 
người ta thường gọi là “cái bẫy        của ngôn ngữ”. 
Chúng ta hãy đọc một đoạn của Osho dưới đây: ”Đừng        lo sợ 
gì cả, vì toàn bộ tiến trình giáo lý Bát Nhã Tâm Kinh sẽ giúp anh       
 phóng thể, khai sáng cái bản ngã: cái “Tôi” đó thực không hiện hữu – 
chỉ        cái “Tôi” đó là cái duy nhất không hiện hữu, không thực!  
Ngoài ra tất cả        đều thực có.  Có nhiều đạo sư đã nói: “Thế giới 
này là ảo ảnh và linh hồn        mới hiện hữu – cái ‘Tôi” là thực, ngoài
 ra đều là ảo giác.”  Đức Phật lại        giảng trái ngược lại: “Cái Tôi là không thực, còn những thứ khác là        thực.”  Tôi đồng ý với Đức Phật về quan điểm này hơn tất cả những lập        thuyết, quan niệm của những đạo sư khác…”[Osho:        Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm]
Đức Phật không hề nói “cái        Tôi là không thực, còn những thứ khác là thực…” 
        Những người am tường giáo lý đạo Phật đều biết trong suốt bốn 
mươi chín        năm thuyết pháp, Đức Phật đều là tuỳ căn cơ, hay nói 
một cách khác, tuỳ        bệnh “chấp thật” của chúng sinh mà cho thuốc 
khác nhau.  Ngài phá chấp        thật: phá Ngã chấp, Pháp chấp và Không 
chấp; [01] ngay cả lời nói của        Ngài, Ngài cũng nói là vọng tưởng,
 chớ nên chấp thật.
Một đoạn khác, cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho cho rằng Tiểu ngã hoà        nhập vào Đại ngã là Niết Bàn: “Chỉ
        có người nào yêu và thiền định thì mới có thể chết tỉnh thức 
được.    Và        một khi anh chết trong tỉnh thức rồi, thì anh không 
cần phải lộn lạo luân        hồi trở lại cuộc đời này nữa, vì anh đã học
 xong bài học thế gian rồi.         Rồi anh tan biến vào vũ trụ, hội 
nhập vào đại thể, hoà mình vào chân ngã –        đó là Niết Bàn tịch 
tĩnh đấy, anh ạ!  [Osho:        Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm]
Đây chính là quan niệm của Ấn Độ giáo hay Bà La Môn Giáo.  Đối với 
Phật        giáo thì mọi khái niệm, tư tưởng về Bản Ngã, dù là Tiểu Ngã 
hoặc Đại Ngã        đều bị quét sạch, kể cả cái công cụ quét cũng bị 
quét luôn.  Ngay cả đến        giáo lý của Phật giảng dạy cũng chỉ được 
coi là phương tiện như con đò đưa        người qua sông.  Khi đã đến 
được bến đò thì phải bỏ đò và người đưa đò tức        Phật cũng phải bỏ 
luôn và phải bỏ luôn cả cái vọng chấp gọi là bến đò nữa        mới có 
thể đạt tới cái mà sách vở tạm dùng ngôn từ mà gọi là Niết Bàn,        
Chơn Như. 
Còn trên phương diện hành trì, giáo lý nhà Phật chủ trương 
diệt dục vì        dục là nguồn gốc của khổ đau và luân hồi thì Osho lại
 chủ trương ngược        lại.  Ông đề cao dục, ca ngợi dục, 
quảng bá dục; nhất là tình yêu và        tình dục, ông dành nhiều buổi 
thuyết giảng về tình dục và viết thành một        quyển sách nói về 
Dục.  Ông chỉ dạy kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài        lâu. 
 Nên lưu ý, đây là điểm quan trọng trong quá trình truyền đạo của       
 ông, là “đường lối hành trì” để hành giả đạt đến giác ngộ giải thoát, 
đến        Niết Bàn hay Thượng Đế” của cái gọi là “giáo lý” của “Đạo sư Osho”.         Xin trích đoạn: 
“..Nhưng        người đã nghiên cứu về dục, người đã đi sâu vào 
nó, người đã thiền về        những kinh nghiệm nhiều kiếp, đều nêu ra 
rằng nếu giao hợp chỉ kéo dài một        phút thì con người sẽ ham muốn 
nó lần nữa vào ngày hôm sau, nhưng nếu nó        có thể được kéo dài 
trong ba phút thì người đó sẽ không nghĩ về dục trong        một tuần 
tiếp sau. Hơn nữa, họ đã quan sát rằng nếu giao hợp có thể được        
kéo dài trong bẩy phút thì người đó sẽ tự do khỏi dục đến mức không ý 
nghĩ        đam mê dục nào nẩt sinh trong người đó trong ba tháng. Và 
nếu thời kì giao        hợp có thể kéo dài ba giờ thì người đó sẽ tự do 
với dục mãi mãi; người đó        sẽ không bao giờ ham muốn nó lần nữa!
 Nhưng kinh nghiệm của con người nói chung chỉ kéo dài trong một 
khoảnh        khắc; thậm chí khó mà tưởng tượng được một thời kì ba giờ.
 Tuy nhiên, tôi        lặp lại:               nếu một người có thể vẫn 
còn trong tư thế giao hợp, có thể vẫn còn trong        samadhi đó,      
  trong sự chìm ngập ba giờ, thế thì chỉ một hành động giao hợp đó cũng 
đủ        để giải phóng người đó khỏi dục cho phần còn lại trong cuộc 
đời mình. Nó        để lại sau một kinh nghiệm mãn nguyện, một kinh 
nghiệm phúc lạc đến mức nó        kéo dài cả đời. Sau việc giao hợp hoàn
 hảo đó thì không còn rào chắn để        đạt tới vô dục thực sự.
 Thậm chí sau cả đời kinh nghiệm dục chúng ta cũng chẳng bao giờ 
đạt tới        bất kì đâu gần cái giai đoạn tối cao đó, gần điều thiêng 
liêng đó. Tại        sao? Người ta đạt tới tuổi già chín muồi, đi tới 
cuối cuộc sống của mình,        nhưng người đó chưa bao giờ được tự do 
khỏi sự thèm khát dục, khỏi niềm        đam mê giao hợp. Tại sao? Bởi vì
 người đó chưa bao giờ hiểu mà cũng không        được bảo cho về nghệ 
thuật dục, về khoa học dục. Người đó chưa bao giờ xem        xét nó; 
người đó chưa bao giờ thảo luận về nó với người đã chứng ngộ.
 Bạn có thể ngần ngại rằng một kinh nghiệm mà thường chỉ kéo dài 
một khoảnh        khắc lại có thể được kéo dài trong ba giờ, cho nên tôi
 sẽ nêu ra cho bạn        một số điểm chỉ dẫn. Nếu bạn chú ý tới chúng, 
thì cuộc hành trình tới vô        dục sẽ trở nên đơn giản hơn.
 Việc thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng 
ngắn; hơi        thở người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó 
càng kéo dài hơn. Và                     việc giao hợp càng kéo dài lâu,
 thì càng nhiều khả năng từ dục tạo ra cánh        cửa tới samadhi,
 một kênh cho siêu tâm thức.        Như tôi đã nói trước đây, việc hiểu 
về vô ngã, về vô thời gian, bắt đầu hé        mở ra cho con người trong 
samadhi-dục đó. Việc thở phải rất chậm. Việc làm        chậm hơi thở sẽ 
mở ra viễn cảnh ngày càng sâu sắc hơn của nhận thức rõ.
 Một điều khác cần phải nhớ trong hành động giao hợp là ở chỗ 
nhận biết của        bạn nên được tập trung vào giữa hai con mắt, ở chỗ 
của agnichakra. Nếu sự        chú ý được tập trung vào đó, thì thời hạn 
cực đỉnh có thể được kéo dài -        thậm chí tới ba giờ. Và một hành 
động giao hợp như vậy có thể bắt rễ chắc        chắn một người vào mảnh 
đất của vô dục - không chỉ cho kiếp sống này mà        cho kiếp sống 
tiếp nữa..”        [Osho:        Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức (Bài nói thứ 4)©Osho International Foundation]
Có người cho rằng những điều giảng trên không phải là của Phật giáo 
mà là        của Mật Giáo Ấn Độ hay như Osho gọi chung chung là Mật 
tông. 
Thêm vào đó, tình yêu và tình dục nam nữ mà Osho đề cao cũng được ông  giảng lồng vào trong các kinh Phật,
 như trong kinh Kim Cương và Bát        Nhã Tâm kinh.  Điều này xác nhận
 tư tưởng của ông đối nghịch với giáo lý        nhà Phật như nước với 
lửa.  Xin trích đoạn: “…Chỉ        có tình yêu lan tràn ra thế giới 
mới đem đến cách mạng. Chủ nghĩa cộng sản        đã thất bại, chủ nghĩa 
phát xít đã thất bại, chủ nghĩa tư bản đã thất bại.        Tất cả các 
"chủ nghĩa" đều thất bại bởi vì sâu bên dưới tất cả chúng đều        kìm
 nén dục. Về phương diện này, không có sự khác biệt giữa Washington và  
      Moscow, Bắc kinh và Delhi không có khác biệt nào hết cả. Tất cả họ
 đều        đồng ý về một điểm rằng dục cần phải bị kiểm soát, rằng 
người ta phải        không được phép có niềm vui hồn nhiên trong dục.  
Mật tông tới để lập lại        quân bình. Mật tông là phương thuốc cho 
nên nó nhấn mạnh quá nhiều vào        dục. Những cái gọi là tôn giáo nói
 dục là tội lỗi, còn mật tông nói dục là        hiện tượng thiêng liêng 
duy nhất. Mật tông là phương thuốc. Thiền không        phải là phương 
thuốc. Thiền là trạng thái khi bệnh tật đã biến mất và tất        nhiên,
 cùng mất đi với bệnh thì phương thuốc cũng mất đi nữa.  Một khi bạn    
    được chữa lành khỏi bệnh, bạn không còn giữ lại toa thuốc và cả lọ 
thuốc        và thuốc với mình. Bạn vứt chúng vào sọt rác.  Xã hội thông
 thường chống        dục; Mật tông tới để giúp loài người, để trả lại 
dục cho loài người. Và        khi dục đã được trả lại, thì nảy sinh 
Thiền. Thiền không có thái độ. Thiền        là sự mạnh khỏe thuần khiết. " [Osho:        Kinh Kim Cương Việt dịch: Như Không]
 “…Khi        anh ân ái giao hợp với một người phụ nữ anh thương,
 cái tột đỉnh của khoái        lạc chính là đỉnh cao của Chân Không. 
Ngay giây phút Chân Không hay khoái        lạc cực điểm đó, người đàn bà
 không còn là người đàn bà nữa và người đàn        ông cũng không còn là
 người đàn ông nữạ Những hình thái nam nữ đó đã biến        mất. Cái 
tính chất phân cực, sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà không còn       
 đó nữa, sự căng thẳng không còn đó nữa; tất cả đã tuyệt đối buông xả, 
thư        giản hoàn toàn…”        [Osho:        Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm]
Những lời ông giảng về kinh Phật và hành thiền nghe thật hấp dẫn, rất
 êm        tai, nhưng theo ông, hành giả chỉ có thể đến được với nó qua 
đường tình        yêu và tình dục.  Đây chính là viên thuốc độc bọc đường để mê hoặc lòng        người và đó chính là cái bẫy của ngôn từ,
 nên những người mới vào đạo        Phật cần phải lưu ý mà tránh xa.  
Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã cảnh giác        những ai đi theo con đường
 dâm (sex), Ngài nói: “…Nói        chung sự tà dâm được thực hiện 
bởi sự tham muốn, nhưng người ta cũng có        thể làm như thế bởi lòng
 sân hận, như khi một người ngủ với vợ của một kẻ        thù.  Cũng 
thỉnh thoảng nó được thực hiện do sự vô minh, cho rằng qua        sự giao hợp người ta có thể đạt được các chứng ngộ vĩ đại…”        [Con
        Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To 
Freedom, Dalai        Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản 
Thiện Tri Thức 1999]
Cũng nên nói thêm, trong cuốn Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức, Osho khẳng định        không có con đường nào khác hơn để đi đến samadhi là phải qua con đường        tình dục:“Con
        đường từ dục tới samadhi là con đường dài. Samadhi là mục tiêu 
tối thượng;        dục chỉ là bước đầu tiên. Và tôi muốn chỉ ra rằng 
những người từ chối thừa        nhận bước đầu tiên, người chỉ trích bước
 đầu tiên, thì thậm chí không thể        nào đạt tới bước thứ hai được. 
Họ không thể nào tiến bộ được chút gì. Điều        bắt buộc là phải tiến
 bước thứ nhất có ý thức, hiểu biết và nhận biết. …”
Trong một bài giảng khác, Osho cũng xác nhận rằng: “Sex        
contains samadhi, because life contains God. Move from sex to samadhi,  
      from sex to superconsciousness; this is the only natural and 
rightful way.        Don't get stuck anywhere in sex. I teach you sex 
and transcendence both,        because the transcendence is possible 
only through it. And the people who        are teaching repression are 
not teaching transcendence. In fact, they go        on pouring more mud 
on you. They go on forcing you deeper in the mud        because there is
 no possibility of transcendence if you have not moved        through 
these sexual stages of autoeroticism, of homoeroticism, of        
heteroeroticism, and then to transcendence. And the lotus blooms, the   
     one-thousand-petalled lotus. You are containing it in yourself. 
Avoid the        priests and the politicians and you can achieve it. 
They are standing in        the way…” [Osho: The Secret of Secrets, Vol 
2, Chapter 15 (Available on        Audio only)  Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International        Foundation 1995] 
Khi giảng về Thiền Định trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho giảng huyên thuyên,       dùng
 toàn thuật ngữ Phật giáo nhưng chỉ có chữ mà không có nghĩa, hầu       
 như không có liên hệ gì với giáo lý nhà Phật, lại còn có những điểm 
trái        ngược với Phật giáo, như khi giảng về thiền định, ông phân chia Thiền        Định làm hai lực đối kháng nhau: Thiền là một cái gì “yên        tĩnh, ôn hòa, sâu lắng” trong khi đó Định thì có bản chất “bạo        hành, cá nhân bản ngã…”        Chúng ta hãy đọc thử một đoạn: “…Định
        là ý thức đối đãi, nhị nguyên: bởi thế Định tạo ra sự mệt mỏi, 
chán ngán,        cho nên khi anh tập trung vào một đối tượng nào, anh 
cảm thấy mệt lả.  Anh        không thể tập trung suốt hai mươi bốn tiếng
 đồng hồ liền được, anh phải        nghỉ ngơi.  Sự tập trung không bao 
giờ có thể trở thành bản chất của anh        được. Thiền không bao giờ 
làm cho anh mệt mỏi.  Thiền không bao giờ làm        cho anh đuối sức.  
Anh có thể thiền hai mươi bốn giờ đồng hồ liền hay ngày        nọ qua 
ngày kia, năm nọ qua năm kia.  Thiền có thể trở thành vô tận vì        
chính bản chất thiền là thư thái, an nhiên, tuyệt đối không căng thẳng, 
       mệt lả, đuối sức.  Định là một hành động, một loại hành động có ý
 chí mạnh        mẽ.  Còn Thiền là trạng thái không ý chí, một trạng 
thái vô hành….Trong        Định, chúng ta đã có sẵn một kế hoạch, một dự
 án, một tư tưởng trong tâm        trí.  Khi anh tập trung tâm trí vào 
một đối tượng, đầu óc anh hoạt động dữ        dội, anh thấy rõ là anh 
đang quán chiếu cái gì, tập trung tâm ý vào cái        gì, vì tập trung 
hiện ra từ vùng quá khứ….Định sẽ khiến anh trở thành một        con 
người ý chí.  Nhưng thiền sẽ đưa anh đến Chân Không, sẽ đưa anh đến     
   vùng Chân Như tự tại.  Đó là chính xác những gì Phật nói với Xá Lợi 
Phất…[Osho:        Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm]
Trong khi đó, Định theo Phật giáo là “trạng thái chú tâm lên 
một đối        tượng duy nhất bằng sự lắng lọc từ từ của tâm. Định là 
một dạng tâm thức,        trong đó không còn tính nhị nguyên, 
trong đó chủ thể biến thành một        với khách thể, lúc đó chỉ còn một
 "kinh nghiệm tâm thức" là có thật. Khả        năng đạt định là một 
trong những điều kiện tiên quyết để tu tập Thiền…,        hành giả nhờ 
Định (s: samadhi) mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm        
thức, trong đó toàn bộ tâm thức chỉ chú ý đến một đối tượng thiền định  
      thuộc về tâm hay vật. Tâm thức sẽ trải qua nhiều chặng, trong đó 
lòng tham        dục dần dần suy giảm. Một khi hành giả trừ Năm chướng 
ngại thì đạt được        bốn cõi thiền (Tứ thiền định) của sắc giới (xem
 Ba thế giới), đạt được Lục        thông (s: abhij) và tri kiến vô 
thượng. Tri kiến này giúp hành giả thấy rõ        các đời sống trước của
 mình, thấy diễn biến của sinh diệt và dẫn đến giải        thoát mọi Ô 
nhiễm. Hành giả đạt bốn cõi thiền cũng có thể chủ động tái        sinh 
trong các cõi Thiên (deva) liên hệ. 
Trong giai đoạn một của thiền định, hành giả từ bỏ lòng tham dục và 
các        pháp bất thiện, nhờ chuyên tâm suy tưởng mà đạt đến. Trong 
cấp này, hành        giả có một cảm giác hỉ lạc. Trong giai đoạn hai, 
tâm suy tưởng được thay        thế bằng một nội tâm yên lặng và tâm thức
 trở nên sắc sảo bén nhọn, xuất        phát từ sự chú tâm quán sát. Hành
 giả tiếp tục ở trong trạng thái hỉ lạc.        Qua giai đoạn ba, tâm hỉ
 lạc giảm, tâm xả bỏ hiện đến, hành giả tỉnh giác,        cảm nhận sự 
nhẹ nhàng khoan khoái. Trong giai đoạn bốn, hành giả an trú        trong
 sự xả bỏ và tỉnh giác. 
Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồm 
tất cả        phép tu như quán niệm hơi thở, Bốn niệm xứ ... với mục 
đích nhiếp tâm và        làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề 
Đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc        đã phát triển rất mạnh (Thiền 
tông). 
Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền cũng không phải là những phương 
pháp đã        nêu trên. Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định
 nghĩa, không thể        mô tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong 
nghĩa này thì Thiền không        nhất thiết phải liên hệ với một tôn 
giáo nào cả kể cả Phật giáo. Trạng        thái tâm thức vừa nói đã được 
các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên        thế giới, mọi thời đại
 và văn hóa khác nhau trực nhận và mô tả bằng nhiều        cách. Đó là 
kinh nghiệm giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa        là 
thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh tử. Vì vậy, Tọa thiền không  
      phải là một phương pháp đưa con người đi từ vô minh đến giác ngộ, 
mà là        giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình đang mỗi 
lúc hiện diện…” [Tự điển Phật Học Đạo Uyển: http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T132.htm]
Còn có quá nhiều điều đối nghịch với giáo lý nhà Phật, nhưng người 
viết        cho là tạm đủ để độc giả có thể nhìn rõ thêm về ông Osho và 
giá trị những        lời thuyết giảng của ông về đạo Phật.  Osho có phải
 là đạo sư và những lời        thuyết giảng của ông có phải là khuôn 
vàng thước ngọc không, điều đó không        tuỳ thuộc vào những điều ông
 nói, không tuỳ thuộc vào những khả năng trích        dẫn từ kinh điển 
Phật giáo mà là từ hành động của ông và động lực để        giảng dạy của ông. 
Ngài Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã nói rằng: “Động        lực giảng 
dạy (của một vị Thầy) phải trong sạch – không bao giờ vì một ước        
muốn danh tiếng hay lợi lạc vật chất… Trong thế giới, nếu không có một 
nhà        lãnh đạo chân chính thì chúng ta không thể cải thiện xã hội 
được.  Cũng        vậy, trừ phi vị thầy có phẩm chất đúng đắn, thì mặc 
dù đức tin của bạn có        mạnh mẽ đến đâu, việc theo học vị thầy có 
thể làm hại bạn nếu bạn được dẫn        dắt theo một đường hướng sai 
lầm.  Vì thế, trước khi thực sự coi ai là        thầy, điều quan trọng 
là phải khảo xét họ…”         … Nếu như vị đạo sư của bạn buộc bạn 
phải làm việc vô đạo đức hay nếu giáo        lý của vị ấy mâu thuẫn với 
Phật Pháp thì hành xữ như thế nào?  Ngài Đạt        Lai Lạt Ma nói 
tiếp:  “Bạn        nên trung thành với điều đạo đức và xa rời những gì không phù hợp với Pháp…”  
        Ở Ấn Độ, một lần kia, một vị thầy có nhiều đệ tử yêu cầu họ đi 
ra ngoài ăn        trộm.  Vị thầy thuộc đẳng cấp Bà La Môn và rất 
nghèo.  Ông dạy rằng khi        những người Bà la Môn trở nên nghèo khó 
thì có quyền ăn cắp.  Ông nói, là        những người được Trời Brahma - 
đấng sáng tạo của thế giới – yêu quý, đối        với một người Bà la 
môn, việc ăn cắp không xấu xa.  Những đệ tử sắp đi ăn        cắp thì vị 
thầy người Bà la môn nhận thấy một đệ tử đứng im lặng cúi đầu        
xuống.  Ông hỏi anh tại sao không đi.  Người học trò nói:  “Điều thầy 
dạy        chúng con bây giờ trái nghịch với Pháp, vì vậy con không nghĩ
 rằng con có        thể làm được điều đó. “  Lời nói này làm vui lòng 
người Bà la môn, ông        nói: “Ta đã trắc nghiệm các con.  Mặc dù các
 con đều là đệ tử của ta và        trung thành với ta, nhưng sự khác 
biệt giữa các con là sự phán đoán.  Ta        là thầy của các con, nhưng
 các con phải xem xét lời chỉ dạy của ta, và bất        kỳ lúc nào lời 
chỉ dạy chống trái với Pháp thì các con chớ nên theo.” …”        
[Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom, 
       Dalai Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri 
Thức 1999].
Hoàng Liên Tâm 
Chú Thích
[01] Ngã chấp, Pháp chấp, Không chấp: Chấp thật cái thân thể và sự suy nghĩ của bộ não của ta gọi là Ngã Chấp. Chấp thật vạn sự vạn vật trong vũ trụ pháp giới do ta hiểu biết được cho là Thật Tánh Thật Tướng, gọi là Pháp Chấp. Phá được Ngã Chấp và Pháp Chấp, thấy tất cả đều không, chấp cái không này là thật Không gọi là Không Chấp.
[02] Cần biết thêm về ông Osho, quý độc giả có thể tìm mua đọc 
Bhagwan:        The God That Failed, published by Saint Martin's Press 
and written by Hugh        Milne (Shivamurti), quyển sách này được viết 
bởi Hugh Milne, một đệ tử        thân cận với Osho trong thời kỳ ở Poona
 và Oregon.  Một quyển sách thứ hai        cũng nên xem là cuốn: Promise
 of Paradise: A Woman's Intimate Life With        'Bhagwan' Osho 
Rajneesh, published by Barrytown/Station Hill Press.  Cả        hai 
quyển sách đều không còn, nhưng có thể mua lại sách cũ tại         
http://www.Amazon.Com  and http://www.Amazon.Com.UK         
Sách và Tư Liệu Trích Dẫn:
[01] Has Any American City Ever Faced Biological Warfare?
By George Beres http://www.hnn.us/articles/355.html
Mr. Beres, a graduate of Northwestern's Medill School of Journalism, was sports information director at the University of Oregon.
[02] Oregon. Town Never Recovered From Scare
The Associated Press/October 19, 2001
By Gillian Flaccus http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh8.html
[03] The Story of a Truly Contaminated Election
Columbia Journalism Review/Jan/Feb 2001
By Lawrence K. Grossman http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh4.html
[04] Osho: From Sex To Super-Consciousness – ©Osho International Foundation (ấn bản Anh)
[05] Osho: Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức – ©Osho International Foundation (ấn bản Việt)
[06] Osho: The Secret of Secrets, Vol 2, Chapter 15 (Available on Audio only) Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International Foundation 1995
[07] Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Minh Tâm
[08] Osho: Kinh Kim Cương, Việt dịch: Như Không, ©Osho International Foundation (ấn bản Việt)
[09] Dalai Latma 14: Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999
[10] Osho: "Autobiography of a spiritually incorrect mystic," St. Martin's Press, (2000) Review/order this book
[11] Osho: "Meditation: The first and last freedom," ST, Martin's Press, (1997). Review/order this book
[12] Osho: "Courage: The joy of living dangerously," Griffin, (1999). Review/order this book This is one of a new series of books in the series "Insights for a new way of living."
[13] Osho: The science of meditation is at: http://osho.com
[14] Friends of Osho has a web site at: http://www.sannyas.net/ They have a list of Sannyasins, [15] Osho information centers, etc. at: http://oz.sannyas.net/friends/
[16] Friends of Osho have a biography of Osho at: http://earth.path.net/osho/osho02.htm
[17] Osho Vision: A lifestyle of meditation and celebration at: http://www.meditate-celebrate.com
[18] Christopher Calder, "Osho, Bhagwan Rajneesh, and the Lost Truth," at: http://home.att.net/~meditation/Osho.html
[19] Article in the New York Times, 1998-MAR-11, Page A21. Mentioned in "Food Poisoning and Biological Warfare,"
[20] "Osho Rajneesh," is a particularly beautiful web site, which covers a wide range of topics: http://osho.toptelemedia.com/index1.htm
[21]Tự điển Phật Học Đạo Uyển:
Sách và Tư Liệu Trích Dẫn:
[01] Has Any American City Ever Faced Biological Warfare?
By George Beres http://www.hnn.us/articles/355.html
Mr. Beres, a graduate of Northwestern's Medill School of Journalism, was sports information director at the University of Oregon.
[02] Oregon. Town Never Recovered From Scare
The Associated Press/October 19, 2001
By Gillian Flaccus http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh8.html
[03] The Story of a Truly Contaminated Election
Columbia Journalism Review/Jan/Feb 2001
By Lawrence K. Grossman http://www.rickross.com/reference/rajneesh/rajneesh4.html
[04] Osho: From Sex To Super-Consciousness – ©Osho International Foundation (ấn bản Anh)
[05] Osho: Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức – ©Osho International Foundation (ấn bản Việt)
[06] Osho: The Secret of Secrets, Vol 2, Chapter 15 (Available on Audio only) Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International Foundation 1995
[07] Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Minh Tâm
[08] Osho: Kinh Kim Cương, Việt dịch: Như Không, ©Osho International Foundation (ấn bản Việt)
[09] Dalai Latma 14: Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999
[10] Osho: "Autobiography of a spiritually incorrect mystic," St. Martin's Press, (2000) Review/order this book
[11] Osho: "Meditation: The first and last freedom," ST, Martin's Press, (1997). Review/order this book
[12] Osho: "Courage: The joy of living dangerously," Griffin, (1999). Review/order this book This is one of a new series of books in the series "Insights for a new way of living."
[13] Osho: The science of meditation is at: http://osho.com
[14] Friends of Osho has a web site at: http://www.sannyas.net/ They have a list of Sannyasins, [15] Osho information centers, etc. at: http://oz.sannyas.net/friends/
[16] Friends of Osho have a biography of Osho at: http://earth.path.net/osho/osho02.htm
[17] Osho Vision: A lifestyle of meditation and celebration at: http://www.meditate-celebrate.com
[18] Christopher Calder, "Osho, Bhagwan Rajneesh, and the Lost Truth," at: http://home.att.net/~meditation/Osho.html
[19] Article in the New York Times, 1998-MAR-11, Page A21. Mentioned in "Food Poisoning and Biological Warfare,"
[20] "Osho Rajneesh," is a particularly beautiful web site, which covers a wide range of topics: http://osho.toptelemedia.com/index1.htm
[21]Tự điển Phật Học Đạo Uyển:
No comments:
Post a Comment