Dalai Lama
Tuệ Uyển dịch Việt
New York Times, May 24, 2010
New York, USA - Khi tôi là một thiếu niên ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng 
đạo Phật của chính tôi phải là một tôn giáo tốt nhất - và những tôn giáo
 khác là kém hơn làm sao ấy. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế 
nào vậy, và nguy hiểm như thế nào mà sự cực đoan thiếu bao dung tôn giáo
 thể hiện ngày nay.
Mặc dù sự thiếu bao dung có thể 
là xa xưa như chính những tôn giáo, chúng ta vẫn thấy có những dấu hiệu 
mạnh mẽ về sự độc hại của nó. Ở Âu châu, có những cuộc tranh luận nghiêm
 trọng về việc những người mới nhập cư đeo mạng che mặt hay muốn dựng 
lên những tháp cầu nguyện và những chuyện bạo động chống lại những người
 di dân Hồi giáo. Những người vô thần cực đoan đưa ra sự lên án bao trùm
 những ai duy trì niềm tin tôn giáo. Ở Trung Đông, những ngọn lửa chiến 
tranh được thổi lên bởi thù hận của những ai trung thành những tín 
ngưỡng khác nhau.
Những
 căng thẳng như thế dường như tăng lên khi thế giới trở nên liên hệ với 
nhau hơn và những nền văn hóa, con người và tôn giáo trở nên liên hệ hỗ 
tương vào nhau hơn bao giờ hết. Áp lực này tạo nên sự thử thách hơn đối 
với sự kiên nhẫn bao dung của chúng ta - nó đòi hỏi chúng ta đẩy mạnh 
một cách hòa bình sự cùng tồn tại và thông hiểu không bị giới hạn trong 
những đường biên giới.
Đương nhiên, mỗi tôn giáo có một ý nghĩa
 riêng biệt như bộ phận cốt lõi chân giá trị của nó. Ngay cả thế, tôi 
tin rằng có một khả năng chân thành cho sự thông hiểu hỗ tương. Trong 
khi duy trì niềm tin đối với truyền thống của mỗi người, chúng ta có thể
 tôn trọng, ngưỡng mộ và cảm kích những truyền thống khác.
Một người đã mở mắt cho tôi là sự gặp gỡ
 với một tu sĩ dòng Luyện tâm (Trappist) Thomas Merton ở Ấn Độ chỉ trước
 khi ông đã chết rất trẻ năm 1968. Merton đã nói với tôi rằng ông có thể
 trung thành tuyệt đối với Ki Tô giáo, tuy thế ông đã học hỏi một cách 
sâu xa từ những tôn giáo khác như Phật giáo. Điều ấy cũng giống với tôi 
như một người Phật tử nhiệt tình học hỏi từ những tôn giáo vĩ đại khác 
của thế giới.
Điểm chính trong cuộc thảo luận với 
Merton là trọng tâm lòng bi mẫn như thế nào đối với cả Ki Tô giáo và 
Phật giáo. Khi đọc về Tân Ước, tôi thấy ngưỡng mộ những hành vi bác ái 
của chúa Giê-Su. Những phép lạ của ngài về bánh mì và cá, sự chữa trị 
của ngài và sự giảng dạy của ngài tất cả được thúc đẩy bởi khát vọng 
giải thoát khổ đau.
Tôi
 là một người với niềm tin vững vàng trong năng lực tiếp xúc cá nhân để 
vượt qua những sự khác biệt. Vì thế tôi đã từng tổ chức những cuộc đối 
thoại với những người với những quan điểm tôn giáo khác. Sự tập trung 
trên lòng bi mẫn mà Merton và tôi đã quán chiếu trong hai tôn giáo của 
chúng tôi gây ấn tượng cho tôi như một dòng chảy thống nhất mạnh mẽ giữa
 tất cả những tôn giáo quan trọng. Và những ngày này chúng ta cần làm rõ
 những gì kết hợp chúng ta lại.
Thí dụ lấy trường hợp Do Thái giáo. Lần 
đầu tiên tôi đã viếng thăm một đền thờ Do Thái ở Cochin, Ấn Độ, năm 
1965, tôi đã từng gặp nhiều giáo sĩ qua nhiều năm. Tôi nhớ một cách sâu 
sắc vị giáo sĩ Do Thái ở Hòa Lan, người đã nói với tôi về sự tàn sát 
người Do Thái với một cảm xúc mãnh liệt đến nỗi cả hai chúng tôi đều rơi
 nước mắt. Và tôi đã từng học về tại sao Talmud[i] (1) và thánh kinh lập
 lại chủ đề về bi mẫn, bác ái, như trong một đoạn của Leviticus đã 
khuyên nhắc, “Hãy yêu mến hàng xóm của con như chính con.”
Trong nhiều cuộc gặp gỡ của tôi với 
những học giả Ấn Độ giáo, tôi cũng đã thấy trọng tâm bi mẫn vô ngã trong
 Ấn giáo - thí dụ như đã tuyên bố, trong Bhagavad Gita, mà lời ca ngợi 
những ai “vui mừng trong lợi ích của tất cả muôn loài.” Tôi đã rung động
 bởi những cung cách mà giá trị này đã được biểu lộ trong đời sống của 
những con người vĩ đại như Thánh Gandhi, hay ít được biết hơn như Baba 
Amte, người đã thành lập một khu cho người hủi không xa khu cư trú của 
người Tây Tạng thuộc tiểu bang Maharashtra ở Ấn Độ. Ở đó ông làm nơi 
nuôi dưỡng cũng như cho những người phong hủi có nơi cư trú bằng không 
họ sẽ bị lánh xa. Khi tôi nhận giải Nobel Hòa Bình, tôi đã có hiến tặng 
cho khu tập trung của ông.
Bi mẫn hay bác ái là quan trọng ngang 
hàng trong Hồi giáo - và sự thừa nhận đã trở nên thiết yếu trong những 
năm từ sự kiện 11-9, đặc biệt trong sự trả lời cho những ai dán cho Hồi 
giáo nhãn hiệu tín ngưỡng vũ trang. Trong dịp kỷ niệm lần đầu tiên sự 
kiện 11-9, tôi đã nói tại vương cung Thánh đường Quốc Gia ở thủ đô 
Washington, Hoa Kỳ biện luận rằng chúng ta không mù quáng nghe theo sự 
tuyên truyền của ai đấy trong những phương tiện truyền thông và để những
 hành vi bạo động của một vài cá nhân định danh cho toàn thể một tôn 
giáo.
Hãy để tôi nói với quý vị về đạo Hồi mà 
tôi biết. Tây Tạng đã từng có một cộng đồng Hồi giáo khoảng 400 năm, mặc
 dù sự tiếp xúc phong phú nhất của tôi với Hồi giáo là ở Ấn Độ, nơi có 
cộng đồng Hồi giáo lớn thứ hai trên thế giới. Một giáo sĩ Hồi giáo ở 
Ladakh, một lần đã nói với tôi rằng một người Hồi giáo chân chính nên 
yêu mến và tôn trọng tất cả những tạo vật của thánh Alla. Trong sự hiểu 
biết của tôi, Hồi giáo trân trọng bi mẫn-bác ái thiêng liêng như cốt tủy
 nguyên lý tâm linh, phản ánh trên ngay chính danh xưng của Thượng đế, 
“Bác ái và Nhân từ,” mà điều ấy hầu như xuất hiện khi bắt đầu mỗi chương
 của kinh Koran.
Truy
 tìm nền tảng chung trong những nền tín ngưỡng có thể giúp chúng ta vượt
 lên những sự chia cách không cần thiết tại một thời điểm khi mà hành 
động kết hợp là thiết yếu hơn bao giờ hết. Như một chủng loại, chúng ta 
phải nắm lấy tính chất duy nhất của nhân loại, như cùng là những con 
người, khi chúng ta đối diện với những vấn đề của địa cầu như những 
khủng hoảng về nạn dịch, kinh tế và thảm họa sinh thái. Ở mức độ ấy, sự 
đáp ứng của chúng ta phải là một hành động duy nhất.
Hòa hiệp trong những tôn giáo quan trọng
 đã trở thành một thành tố chủ yếu của sự cùng tồn tại hòa bình trong 
thế giới chúng ta. Từ nhận thức này, sự thông hiểu hỗ tương trong những 
truyền thống này không chỉ đơn thuần là trách nhiệm của những người tin 
tưởng tôn giáo - nó quan hệ cho lợi ích của toàn thể nhân loại.
1. Sưu tập những bài viết của những giáo
 sĩ Do Thái bao gồm tập Mishnah và Gemara, cấu thành căn bản tín ngưỡng 
của Do Thái Chính Thống giáo.
2.  Đức Đạt lai Lạt ma thứ mười bốn, 
Tenzin Gyatso là tác giả của một tác phẩm gần đây nhất, về “Đối với mối 
quan hệ cùng tính chất của những tôn giáo: Làm thế nào những tôn giáo 
của thế giới có thể đến với nhau.”
Nguyên tác tiếng Anh: “Many Faiths, One Truth” by TENZIN GYATSO, New York Times, May 24, 2010
No comments:
Post a Comment