
Ông đồ xưa (DR)
Hồi đầu thế kỷ XIX, triều đại nhà Nguyễn được thiết lập ở Việt 
Nam với Gia Long là vị hoàng đế đầu tiên. Triều Nguyễn đã phục hưng Nho 
Giáo và lấy học thuyết Khổng Mạnh làm hệ tư tưởng chính thống. Có thể 
nói rằng, dưới Triều Nguyễn, Nho Giáo giữ vị trí độc tôn trong xã hội, 
từ giáo dục đến chính trị. Nhưng cũng chính dưới thời Nguyễn, Nho Giáo 
đã bị sụp đỗ và dần rơi vào quên lãng.
Nho Giáo bắt đầu được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc Thuộc, 
thế nhưng phải chờ đến thế kỷ thứ 10 thì các triều đại phong kiến Việt 
Nam mới dần chú ý đến Nho Giáo. Từ thời nhà Lý đã thấy nhà vua lập Văn 
Miếu thờ Khổng Tử và tiền hiền ở Thăng Long. Trong lúc Phật giáo còn là 
quốc giáo thì suốt thời Lý-Trần thực lực của Nho Giáo và nho gia ở triều
 đình và trong dân càng ngày càng phát.
Nhà Nguyễn chấn hưng Nho Giáo
Nho giáo bắt đầu chiếm lĩnh vai trò chủ đạo trong nhà nước Việt Nam 
từ triều Hậu Lê (thế kỷ 15) sau khi tầng lớp Nho sĩ dân tộc đã lập công 
lớn trong cuộc kháng chiến dài 20 năm đánh đuổi quân Minh xâm lược. Giáo
 sư Trần Văn Giàu cho rằng, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, về mặt văn
 hoá chính trị, có thể được xem là cái vương miện để trao cho Nho Giáo 
Việt Nam.
Thế nhưng, đến thế kỷ 16 thì Nho Giáo bắt đầu lâm khủng hoảng. Trong 
giai đoạn này, tình hình chính trị trong nước hêt sức rối ren, các giềng
 mối đạo đức xã hội bị đảo lộn. Xung đột liên tiếp xảy ra, hết Lê-Mạc 
phân tranh đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, nhiều bề tôi đã giết vua, cảnh 
huynh đệ tương tàn trên thượng tầng xã hội cũng không phải hiếm ...
Đến năm 1802, Gia Long giành thắng lợi cuối cùng và lập nên Triều 
Nguyễn. Đây là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử của Việt Nam
 tính đến hiện tại. Nhà Nguyễn ra sức chấn hưng Nho Giáo. Trong các đời 
Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nho Giáo Việt Nam giữ vai trò 
độc ton trong xã hội, từ chính trị đến giáo dục.
Cụ thể Nhà Nguyễn đã chấn hưng Nho Giáo như thế nào, Chuyên gia lịch 
sử văn hóa Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần tại thành phố Hồ Chí 
Minh, sẽ minh thị đôi điều về vấn đề này :
« Trước hết, về phía nhà nước, thì nhà Nguyễn đã coi Nho Giáo là 
ngọn cờ tư tưởng chính thống của triều đại mình. Và vị trí đó khiến cho 
Nho Giáo trở nên rất quan trọng.
Trong giáo dục và thi cử, thì Nho Giáo càng có vị trí cao hơn 
nữa. Trước hết, Nho Giáo được đổi mới theo chiều hướng thiết thực hơn, 
chứ không còn thời kì lạc hậu như trước nữa. Nhà Nguyễn đã cho thay đổi 
hệ thống học vị. Và chúng ta biết, đây là một sự thay đổi khá mạnh mẽ so
 với trước đó. Những người đỗ Sinh đồ trước đây thì nhà Nguyễn gọi là Tú
 Tài, và cách đổi gọi này bắt đầu từ năm 1829, tức năm Minh Mạng thứ 10.
 
Nhà Nguyễn cũng không lấy đỗ Trạng nguyên, mà đổi Trạng nguyên 
thành Đình nguyên. Ví dụ như Phan Đình Phùng là người đỗ Đình nguyên 
dưới thời Nguyễn. Nhà Nguyễn cũng đặt ra một học vị mới trong khoa thi 
Hội, đó là học vị Phó bảng. Nhiều nhân vật nổi tiếng đã từng đỗ Phó bảng
 dưới thời Nguyễn như : Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc.
Nhà Nguyễn cũng đã mở rộng qui mô giáo dục, khác hẳn với trước. 
Thời Nguyễn, giáo dục Nho học được áp dụng trên toàn cõi Việt Nam, từ 
Bắc chí Nam. Ở đây, cũng chỉ có một nền giáo dục duy nhất, đó là giáo 
dục Nho học. Cả nước lúc bấy giờ có đến 7 trường thi hương, và tất cả 
các khoa thi hội đều được tổ chức ở kinh đô Huế.
Nhà Nguyễn cũng đã trọng dụng những người đỗ đạt. Do đó, các thời
 Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị vàTự Đức, nhìn chung Nho Giáo rất phát 
đạt, và đã thật sự có vị trí lớn trên vũ đài chính trị và tư tưởng nước 
nhà ».
Nguyên nhân Nho Giáo nhà Nguyễn sụp đổ
Thế nhưng đến cuối đời Tự Đức, thì Nho Giáo lại lâm cảnh khó khăn, 
nền giáo dục Nho Giáo bắt đầu bị thử thách. Và kết quả là, vào năm 1919,
 nền giáo dục Nho Giáo tại Việt Nam đã chính thức cáo chung. Nguyên nhân
 là do đâu ? Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần phân tích:
« Từ cuối thời Tự Đức, tình hình chính trị của đất nước bắt đầu 
có những biến đổi rất mạnh mẽ, rất sâu sắc, gây ảnh hưởng trực tiếp đối 
với Nho Giáo. Đó là thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta. Nhà nước 
phong kiến sụp đổ. Chúng ta biết rằng, nhà nước phong kiến là đỉnh cao 
tôn thờ của nhà Nho. Người ta đi học Nho là để ra phò vua giúp nước. Và 
người ta lấy việc trung quân làm lý tưởng.
Vậy mà bấy giờ, vua không còn xứng đáng đại diện cho quốc gia, 
triều đình cũng không còn xứng đáng đại diện cho quốc gia. Cho nên lý 
tưởng của nhà Nho theo đó mà sụp đổ. Đây là nguyên nhân chính trị. Nhưng
 nguyên nhân chính trị đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự sụp đổ của Nho
 giáo.
Về khách quan, thì Pháp cũng đã truyền bá một nền giáo dục mới. 
Và chính nền giáo dục mới này đã tạo ra một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với 
giáo dục Nho học nói riêng và đối với vị trí của Nho học nói chung.
Phải khách quan mà nói rằng, nền giáo dục của Pháp có những điểm 
rất hấp dẫn. Ví dụ như việc người Pháp dùng văn tự La Tinh. Chữ Hán rơi 
xuống vị trí ngôn ngữ phụ. Mẫu tự La Tinh là một văn tự hoàn toàn mới 
mẽ, tiến bộ, tích cực. Chúng ta thấy rằng, một người giỏi học cả năm sáu
 năm chưa chắc đọc được sách chữ Hán. Nhưng một đứa trẻ chỉ cần học một 
tiếng đồng hồ là có thể ghép vần và đọc được tiếng Việt. Đọc được, còn 
hiểu được hay không thì đó là chuyện khác, nhưng dù sau cũng là đọc 
được. Còn nếu học tiếng Hán, thì học chữ nào biết chữ đó. Bởi vậy, người
 thông minh được gọi là người nhiều chữ.
Người Pháp cũng truyền bác cách học mới, và hoàn toàn khác  với 
cách học của các trường làng của các nhà Nho. Nền giáo dục mà Pháp du 
nhập, tất nhiên về bản chất, đó là một nền giáo dục thực dân. Nhưng ở 
đây chúng ta cũng phải thừa nhận những tác dụng khách quan nằm ngoài ý 
muốn của người Pháp. Đó là nó tạo ra cái mới trong nhận thức của người 
học. Và ở đây, chúng ta cũng phải thừa nhận, Pháp đã truyền bá một loạt 
các ngành khoa học mới vào nền giáo dục của chúng ta. Như khoa học tự 
nhiên, khoa học kỹ thuật. Và ngay cả khoa học xã hội, thì người Pháp 
cũng giảng dạy theo cách của họ, mới hơn, hiện đại hơn, và cũng có những
 cái đáng suy ngẫm hơn.
Về mặt chủ quan, thì rõ ràng, Nho Giáo đã tự bộc lộ những hạn chế
 không thể nào khắc phục được. Đây chính là khó khăn khiến cho Nho Giáo 
bị sụp đổ nhanh chóng. Nho Giáo chỉ thiên về khoa học xã hội và nhân văn
 mà ít chú ý đến các khoa học khác. Nho Giáo đã quảng bá và cổ súy mạnh 
mẽ cho tư tưởng hoài cổ trong lúc xã hội đang khao khát vươn lên để theo
 kịp các nước xung quanh. Và Nho Giáo đã thể hiện tính cực đoan. Chính 
sự cực đoan đó đã khiến cho Nho Giáo bị đẩy vào một vị trí hoàn toàn bất
 lợi.
Lúc bấy giờ cũng có một điều đáng chú ý nữa, đó là sự đóng cửa 
vốn là bản chất của giai cấp phong kiến, thì lúc này nó đã khiến cho Nho
 Giáo quay lưng lại với cái mới. Rõ ràng đóng cửa là hợp với qui luật 
của giai cấp phong kiến. Nhưng hợp với qui luật của giai cấp phong kiến 
thì không có nghĩa là hợp với qui luật vươn lên của lịch sử. Lúc bấy giờ
 là lúc mà người ta cần chấp nhận cái mới, thì Nho Giáo lại chủ trương 
đóng cửa. Và đây chính là nguyên nhân gây tác hại từ bên trong của chính
 Nho Giáo, khiến cho nó bị sụp đổ nhanh chóng. Năm 1918, khoa thi hương 
cuối cùng của nền thi cử Nho Giáo Việt Nam đã được tổ chức. Và khoa thi 
hội năm 1919 cũng là khoa thi hội cuối cùng của nền giáo dục Nho Giáo 
Việt Nam.
Và từ đó thì giáo dục Nho học hoàn toàn bị đóng cửa. Số người đọc
 được chữ Nho ngày càng ít. Số người hiểu được triết lý của Nho Giáo lại
 càng ít hơn. Và đặc biệt, những giá trị văn hóa của tổ tiên kết tinh 
trong các trước tác viết bằng chữ Hán thì không phải ai cũng sử dụng 
được. Đó là sự sụp đổ cí tính qui luật. Nhưng đó cũng là sự sụp đổ gây 
ra không ít thiệt hại cho chúng ta ngày nay ».
Kế thừa mặt tích cực của Nho Giáo
Nền giáo dục Nho Giáo đã lùi xa, Nho Giáo đã bị xem là lạc hậu. Thế 
nhưng, có phải tất cả những cái gì thuộc về Nho Giáo đều không còn hữu 
dụng. Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần nhận định :
«Tất nhiên Nho Giáo sụp đổ là hoàn toàn hợp với qui luật, nhưng 
điều đó không có nghĩa là Nho Giáo hoàn toàn bị khép lại trong dĩ vãng, 
và cũng không có nghĩa là nó không còn điều gì đáng để chúng ta kế thừa.
 Ngược lại, ngày nay, chúng ta cần phải kế thừa những giá trị tíc cực do
 chính các nhà Nho để lại.
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu đã khẳng 
định rằng, một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh đã ra đời trên
 cơ sở kế thừa những giá trị tích cực của Nho Giáo, Phật Giáo, Đạo Giáo,
 Thiên Chúa Giáo…
Chúng ta kế thừa Nho Giáo phong thái dung dung của các nhà Nho. 
Kế thừa sự điềm tỉnh trước mọi biến cố. Và đặc biệt chúng ta kế thừa 
tinh thần coi trọng gia giáo mà Nho Giáo để lại. Chúng ta biết rằng, một
 xã hội chỉ có thể được bình ổn và giữ được kỉ cương, khi mà gia giáo 
được bảo vệ và được đề cao.
Thế thì Nho Giáo có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng 
những thiết chế về đạo đức gia đình. Và trong việc xây dựng, đề cao nền 
giáo dục gia đình. Gia đình mà yên ổn, thì xã hội mới có thể đi lên 
được. Cho nên Nho Giáo tuy là đã lạc hậu, tuy là nó không thể nào trở 
lại như thời xưa nữa, nhưng chúng ta cần phải nghiên cứu để kế thừa 
những giá trị tích cực và tốt đẹp của Nho Giáo để lại. Đó có lẽ cũng là 
cái mệnh lệnh đối với những người làm công tác nghiên cứu văn hóa Việt 
Nam hiện nay ».
Bài học lịch sử từ sự sụp đổ của Nho Giáo ?
Nho Gia có thuyết « cái quan định luận », tức là khi một nguời đã 
chết và nắp quan tài đã đậy lại rồi, thì mọi người mới có thể bình luận 
đúng sai về người đó. Gần một thế kỷ sau khi nền giáo dục Nho Giáo cáo 
chung tại Việt Nam, chúng ta thấy rằng, như phân tích của giáo sư Nguyễn
 Khắc Thuần nói trên, thì một trong những nguyên nhân cốt lõi không thể 
phủ nhận được của sự lùi bước của Nho Giáo, đó là sự bảo thủ của nhà cầm
 quyền và sự khép kín của Nho Giáo nhà Nguyễn.
Nhà Nguyễn đã phát huy tối đa những mặc bảo thủ nhất của Nho Giáo, 
nền giáo dục Nho Giáo thời nhà Nguyễn chỉ nhắm đến việc học để làm quan,
 các nhà Nho thì rơi vào cái học tầm chương trích cú, khư khư ôm lấy 
những học thuyết cách đây mấy ngàn năm, cứ cho rằng xưa hơn nay, cứ cho 
rằng Nho Giáo là học thuyết tiến bộ nhất của nhân loại.
Cần phải thấy rằng, không phải tất cả các nhà Nho thời Nguyễn điều 
bảo thủ. Khi nền độc lập quốc gia bị đe dọa, khi đất nước lộ rõ sự lạc 
hậu, khi nền học thuật nước nhà không theo kịp thời cuộc, thì cũng có 
những nhà Nho bắt đầu nhận thấy sự cần thiết phải cải tổ.
Nguyễn Trường Tộ đã dâng lên triều đình đến gần 60 bản điều trần chỉ 
rõ thực trạng yếu kém của nước nhà và đề nghị nhà cầm quyền tiến hành 
cải cách. Theo bước Nguyễn Trường Tộ, nhà Nho Nguyễn Lộ Trạch cũng không
 ngừng dâng lên triều đình những kiến nghị cải cách để chấn hưng đất 
nước, để theo kịp thời đại.
Trong lĩnh vực giáo dục, nếu Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch tập 
trung phê phán nội dung giáo dục Nho Giáo lạc hậu, thì nhà Nho Đặng Huy 
Trứ đặc trọng tâm kiến nghị của mình vào phương pháp giáo dục. Ông kiến 
nghị bỏ lối học tầm chương trích cú, và đề nghị một lối học kích thích 
sự suy nghĩ và sáng tạo của học trò.
Thế nhưng, triều đình Nhà Nguyễn lúc bấy giờ đa phần quan lại đều là 
những nhà Nho bảo thủ. Họ cứ khư khư ôm lấy cái cũ, họ hành xử theo kiểu
 « thủ cựu bài tân ». Ngay như khi đại thần Phan Thanh Giản đi sứ bên 
Pháp về kể chuyện đèn điện hay tàu hỏa bên Pháp, thì các quan trong 
triều con cho rằng cụ Phan kể chuyện viễn vông để lừa phỉnh mọi người.
Triều thần bảo thủ đến mức mà ngay cả một ông vua bảo thủ như Tự Đức 
đôi khi còn phải khéo léo nhắc nhở. Trong cái biển người bảo thủ đó, thì
 rõ ràng đề nghị canh tân của một vài nhà Nho thức thời cũng giống như 
là muối bỏ biển mà thôi.
Nói tóm lại, sự thất bại của Nho Giáo ở Việt Nam hồi cuối thế kỷ 19 
đầu thế kỷ 20 có một nguyên nhân không thể nào chối cãi, đó là sự bảo 
thủ và cực đoan của nhà cầm quyền. Trong bối cảnh thế giới hiện tại, đây
 là một bài học đắc giá cho tất cả các nhà cầm quyền trên thế giới
No comments:
Post a Comment