NVTPHCM- Từ tháng 6.2012, trên các phương tiện truyền thông đã rộ lên câu chuyện về thứ tiếng lạ ở làng Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên, Hà Nội). Kenh.vn ngày 10.6.2012 có bài “Ngôi làng nói thứ tiếng kỳ lạ ở Hà Nội”, viết theo VTC với chapeau:
“Làng
Đa Chất đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ
tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay
mượn. Vào làng phải có… phiên dịch.”
Bài báo viết tiếp:
“Không
chỉ hình tượng và tạo sự liên tưởng, hệ số đếm của làng cũng được hình
thành với những cách đếm riêng và không phải vay mượn. Nhất (một), nhị
(hai), thâm (ba), chớ (bốn), dâu (năm)… mười là lạp. Lái Lạp (hai mươi),
thâm lạp (ba mươi)… bích (một trăm), bích rộng (một nghìn)… Thậm chí
một số vật dụng thời hiện đại cũng đã được người dân ở đây chuyển theo
ngôn ngữ riêng của mình.
“Đồng
hồ (sưỡn nhật), sưỡn mỗ (ô tô), sưỡn trì (tàu thuỷ), sưỡn xì thiên (máy
bay)… Có thể khẳng định rằng, với quy định và việc hình thành ngôn ngữ,
người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của
mình.”
Có
thật đây là “nơi còn lại duy nhất của ngôn ngữ cổ Văn Lang - Âu Lạc” và
người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của
mình” hay không, thưa ông An Chi?
Nguyễn Việt Hùng (Hà Nội)
An Chi trả lời:
Nếu nhìn một cách rời rạc, chẳng hạn nhìn vào số
đếm, thì đây chẳng qua là tiếng lóng nhưng để cho được dè dặt hơn thì
ta phải nhìn “tổng thể”. Giá như có được một sự khảo tả vừa đủ thì việc
nhận định sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Trong khi chờ đợi, ta chỉ có thể
bằng lòng với những ngữ liệu ít ỏi đã được đưa ra. Nhưng nói rằng
“người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của
mình” rõ ràng là đã đi quá xa sự thật. Chúng tôi hoàn toàn không tin ở
sự phóng đại của ông Nguyễn Văn Phường là phó bí thư thường trực Đảng ủy
xã Đại Xuyên, một người dân làng Đa Chất, như đã được thuật lại trong
bài “Làng có ngôn ngữ đặc biệt” của Hồng Hạnh trên Kinh tế & Đô thị
(cập nhật ngày 12-9-2012). Ông này cho rằng “nói đến kho tàng ngôn ngữ
lạ đồ sộ của làng Đa Chất chẳng khác nào lấy lá rừng mà kể, lấy nước
suối mà tính bởi vì gần như bất cứ từ nào có trong từ điển tiếng Việt,
người làng Đa Chất cũng vận được vào tiếng nói riêng của mình”. Hoàn
toàn quá đáng! Trên một nguồn khác, ta còn có thể đọc được một nhận định
không kém phần cường điệu như sau:
“Có
thể nói thứ ngôn ngữ lạ mà người dân Đa Chất giao tiếp với nhau là rất
phong phú. Gần như không thấy hiện hữu của những từ ngữ vay mượn của các
vùng miền khác.”
Không
đúng! Ngay trong hệ thống số đếm của ngôn ngữ “lạ” này, ta đã có thể
thấy số đầu tiên là “nhất”, nghĩa là một, là một hình vị Hán Việt hiển
nhiên. Bài “Sự thật làng «nói tiếng Âu Lạc» ở Thủ đô”, cập nhật ngày
28-6-2012 trên trang Đất Việt có thể giúp ta một cái hướng để nhận định. Trước nhất, xin quan sát đoạn đối thoại sau đây:
– Ông Đoán: Thít chưa? (Ăn chưa)
– Ông Vượng: Thít rồi. Đồi ỏn cũng thít rồi (Tôi ăn rồi, cũng cho mấy đứa trẻ con ăn xong rồi).
– Ông Đoán: Mận thu chứ nhỉ (Chè thuốc chứ nhỉ).
– Tôi không thít vì phải tiếp Chủ tịch Mặt trận. (Tôi chưa ăn vì phải tiếp ông Chủ tịch Mặt trận).
– Hôm nay được bệt thít êm (Hôm nay có nhà mời ăn cỗ).
Những thứ như: thít, đồi, ỏn, mận. thu, bệt, êm
hiển nhiên là “đặc sản Đa Chất” nhưng cũng không kém phần hiển nhiên là
ngữ âm và ngữ pháp ở đây thì hoàn toàn thuộc tiếng Việt hiện đại. Nó
dứt khoát không thể được đẩy lùi về tận thời Văn Lang – Âu Lạc, cũng như
khó mà là một thứ phương ngữ của Tàu
dạt đến vùng này rồi được bảo lưu một cách kỳ lạ để biến thành một thứ
mật ngữ của làng. Có ý kiến còn nói cụ thể hơn rằng“có cái gì đó có âm
hưởng của tiếng Hán, cách phát âm cũng khá giống phương ngữ”. Ta không
thể coi nhẹ ý kiến này vì đây là cách nhìn của chuyên gia am hiểu Hán
ngữ hiện đại và cả cổ Hán ngữ nữa. Nhưng ta có thể khẳng định ngay rằng
trước khi thứ tiếng “lạ” này có âm hưởng của tiếng Hán thì nó mang cái
dáng dấp Việt thuần tuý, có thể thấy rõ qua những từ chúng tôi đã nhặt
ra ở trên : thít có thể thấy trong im thin thít; đồi trong đồi núi, đồi bại; ỏn trong ỏn ẻn; mận trong đào mận; thu trong mùa thu, thu nhập; bệt cttt lệt bệt, ngồi bệt; êm trong êm đềm.
Chính
các bô lão địa phương đã chỉ ra cho ta cái hướng thích hợp để đi đến
một kết luận chính xác. Bài báo trên đã cung cấp cho ta những đoạn lý
thú và bổ ích sau đây:
“Vừa
nghe chúng tôi nhắc đến “ngôn ngữ cổ thời Âu Lạc”, các cụ cao niên làng
Đa Chất vội cười xua tay: “Làm gì có ngôn ngữ cổ Văn Lang hay Âu Lạc.
Chỉ là tiếng lóng thôi!”.
( … )
“Cụ Hiệp kể: Tiếng lóng của làng Đa Chất có từ khi làng làm nghề đóng cối (cối xay bằng tre,
gỗ và đất để xay thóc), truyền từ đời này sang đời khác. “Cụ tôi truyền
cho ông tôi, ông tôi truyền đến bố tôi và tôi. Con tôi không theo nghề
nữa nên không còn sử dụng tiếng lóng này”.
“Những
năm 1990 trở về trước, làng Đa Chất có nghề đóng cối xay truyền thống.
Các tốp thợ của làng toả đi khắp tỉnh, thành từ Thanh Hoá đến Yên Bái
làm nghề. Họ sáng tạo ra hệ thống tiếng lóng chỉ phường thợ cối với nhau
mới hiểu để thuận tiện và giữ bí mật trong nghề. Cũng có khi người thợ
cối nói chuyện với nhau bằng tiếng lóng để chủ nhà không biết họ đang
nói gì.”
Vâng, chỉ là tiếng lóng thôi. Khá hơn một tí thì đó là biệt ngữ của nghề cối Đa Chất. Bài báo trên cũng cho biết trong cuốn Văn hóa dân gian làng Đa Chất,
hai tác giả Chu Huy và Nguyễn Dần cũng gọi đây là biệt ngữ làng nghề.
Vâng, chẳng có hơi hướng gì của thời Văn Lang – Âu Lạc, càng khó mà là một thứ phương ngữ nào đó của Tàu dạt đến vùng Đa Chất rồi được bảo lưu cho đến tận ngày hôm nay.
No comments:
Post a Comment