Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm tuổi Mậu
  Ngọ, sinh năm 1918. Tết Quý Tỵ này lên 96 tuổi ta hiếm quý. 
Giấy tờ ghi là ngày 20 tháng 10
  năm 1922, và các tư liệu về sau đều chép theo như vậy. 
Ông sinh tại làng Nam Trung, huyện
  Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình khoa bảng và giàu có. Thân sinh là
  Nguyễn Tư Tái, xuất thân phó bảng, làm quan rồi từ nhiệm, về quê khai hoang,
  lập nên ấp Lạc Lâm và được dân làng tôn làm thành hoàng. Mẹ Trần thị Luật, là
  người chữ nghĩa, đã khuyến khích con nặn tượng đất thó, từ tấm bé, ghi khởi
  điểm cho con đường nghệ thuật của danh họa về sau. 
 
Gia đình, bảy anh chị em, đều
  thành đạt. 
Nguyễn Tư Nghiêm học và tốt nghiệp
  trường Mỹ Thuật Đông Dương, Hà Nội, khóa cuối, khóa 15 (1941-1946) cùng Bùi
  xuân Phái, với ông thân thiết. Cùng thi tốt nghiệp cuối năm 1946, nhưng vì
  cuộc Toàn quốc kháng chiến, nên không kịp nhận kết quả. Do đó có tư liệu nói
  ông tốt nghiệp 1952, trường Mỹ Thuật kháng chiến. 
Lúc đầu, ông vẽ sơn dầu ; bức
  « Người gác Văn Miếu » (1944), chỉ có một mảng màu, thời đó đã
  được đánh giá cao, là tranh hiện đại, và được giải nhất cuộc Triển lãm Duy
  nhất (Salon Unique) thời đó. Đồng thời ông còn hai bức Cổng làng Mía
  và Cánh đồng quê  nổi tiếng. 
Thời kỳ đầu Cách Mạng tháng 8, ông
  về quê, tham gia cướp chính quyền, rồi tham dự chính quyền ở huyện. Trước đây
  có tài liệu nói ông làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, nhưng là nhầm ông với
  người cùng tên là ông Hoàng Nghiêm. Tiếp theo đó, ông tích cực tham gia kháng
  chiến chống Pháp, chuyên vẽ tranh địch vận.  Năm 1948 ông ra Việt Bắc,
  công tác ở cơ quan Hội Văn nghệ tại xã Xuân Áng, Phú Thọ. Tại đây ông điều khiển
  xưởng vẽ Xuân Áng, bắt đầu vẽ sơn mài rồi chuyên về kỹ thuật này. 
  
  
  
Ông nổi tiếng vì đã đưa gam màu
  lạnh, xanh lam, xanh lá cây, vào sơn mài. Họa sĩ  từ tốn kể lại rằng
  không tài giỏi gì : chỉ dùng màu lam Phổ (bleu de Prusse) phủ lên vàng
  thếp, thành màu xanh lục, theo yêu cầu vẽ tranh bộ đội vào thời điểm ấy. Kỳ
  thật, đây là khúc quành của nghệ thuật hội họa sơn mài, tạo nét linh động, đa
  sắc, tươi mát, đồng thời đưa sơn mài đến gần hiện thực hơn. Giai đoạn này,
  tại Hội nghị văn nghệ Việt Bắc,1949, giá trị tranh sơn mài còn bị tranh cãi,
  trên cơ sở 3 tác phẩm sơn mài của Nguyễn Tư Nghiêm : Cụ già học i tờ,
  Vệ quốc quân đứng gác đêm, vàVệ quốc quân ngồi giữa cánh đồng,
  những bức sơn mài đầu tay. Năm trước,1948, ông đã được giải nhất cuộc triển
  lãm Mỹ thuật toàn quốc, nhưng với bức khắc gỗ «  Dân quân Phù
  Lưu ». 
Sau 1954, về Hà Nội, ông tiếp tục
  sáng tác đủ thể loại : phấn tiên, màu nước, sơn dầu, sơn mài. Vì quan hệ
  với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, ông bị chính quyền lên án cùng với các bạn
  đồng nghiệp khác : Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái,
  Văn Cao, Phan Tại… Ông kể lại  : năm 1959, ông bị đưa đi bệnh viên tâm
  thần tại Khoa Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai. Sau một tháng ở đó, ông bị
  « tước » toàn bộ những thứ có trên người. Thời đó chưa có thẻ Đảng,
  nên không có chuyện ông  « trả lại thẻ Đảng » như truyền
  thuyết. Nhưng sau khi ra Viện ông bị coi như bị mất hết, kể cả Đảng tịch. 
Ngoài ra, tranh ông còn bị lên án
  là không « hiện thực » như tranh con mèo sáu chân, con ngựa tám
  chân, là… « sai đường lối ». Ngược lại, bức sơn mài « Con
  Nghé quả thực » sáng tác năm 1957, theo đường lối, đề cao việc phân
  chia tài sản sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, được dư luận chính thức đề cao,
  được giải thưởng Mỹ thuật toàn quốc, được lưu trữ tại viện Bảo tàng mỹ thuật
  hiện nay, ông lại không tâm đắc. Ông tâm sự với bằng hữu : « nhưng
  sự đời vẫn thế ! Cái người ta thích thì chưa chắc đã phải là cái mình
  thích, và ngược lại ». Câu nói thường thôi, nhưng trong hoàn cảnh
  nào đó, lại là bi kịch. Về sau, ông vẽ lại nhiều lần đề tài Con Nghé,
   bản nổi tiếng được sáng tác năm 1968, sau này thuộc bộ sưu tập Đức
  Minh. 
Họa sĩ trải qua một thời gian dài
  gian nan, điêu đứng, sinh nhai bằng cách vẽ tranh thương mãi, qua các đề
  tài : Gióng, Kiều, Múa Cổ… và tùy đơn đặt hàng. Đặc biệt là tranh
  « con giống » theo mười hai con giáp trong âm lịch. Từ cuộc triển
  lãm năm Rồng, 1988 Mậu Thìn, tranh « con giống » mới đựơc sắp
  xếp thành hệ thống « lục thập hoa giáp » theo quan niệm Âm Dương
  Ngũ Hành, ví dụ hai năm Thân Dậu, (Khỉ Gà), hành Kim, màu trắng làm chủ…,
  tranh Ngựa chủ màu đỏ vì hành Hỏa, v. v… 
  
  
Giới phê bình nghệ thuật đã có
  nhận xét : tranh Nguyễn Tư Nghiêm phối hợp bút pháp hiện đại với tư duy
  cổ truyền, địa phương, tạo nên bản sắc riêng. Đường nét, màu sắc, nhịp điệu,
  không khí luôn luôn được phong cách hóa, dựa theo họa tiết trống đồng Đông
  Sơn, hoa văn đồ gốm Lý Trần, tranh tượng dân gian, kiến trúc đình chùa, nhịp
  điệu chèo tuồng, múa hát truyền thống. Kỹ thuật tạo hình, cho dù hiện đại và
  cách điệu, vẫn gợi lên được khí hậu tín ngưỡng dân tộc – và các nền văn hóa
  lân cận Đông Nam Á. 
Là nghệ sĩ, thì ai ai cũng cần đời
  sống nội tâm phong phú. Nơi Nguyễn Tư Nghiêm, tâm linh có khuynh hướng thần
  bí, rung cảm như bị cuốn hút vào cõi u linh. Do đó nhìn toàn bộ, nghệ thuật
  ông hướng theo thi pháp huyền nhiệm – poétique mystique – Và từng tác phẩm
  một thỉnh thoảng truyền đạt một cảm xúc thần bí. Người không nắm bắt được xúc
  cảm này, cho rằng ông cầu kỳ hay lập dị. Nhưng ta có thể hiểu chất dân tộc
  trong nghệ thuật Nguyễn Tư Nghiêm không phải là một dụng tâm bảo vệ truyền
  thống, trong  ý chí bảo thủ, mà là một nhu cầu siêu linh, từ tiềm thức
  chuyển lên ý thức và thể hiện, hóa thân, thành nghệ thuật. Chất dân tộc không
  phải là hoài niệm, mà là khai phóng và dự phóng, là siêu hình hiển linh thành
  hình khối, một « truyền kỳ họa lục » ; có vậy mới hóa giải
  được mâu thuẫn trong tranh ông : chất cổ truyền trong nét hiện đại, chất
  dân tộc và tầm thế giới. 
Tranh ông mang tính cách bản địa
  nhưng không phải là « sắc màu viễn xứ » (exotisme), ngược lại khá
  gần trường phái Siêu thực Âu Châu, và tác phẩm lừng danh của Chagall, Miro,
  thậm chí một số tranh Picasso mà ông hằng ưa thích. Tranh « lục thập hoa
  giáp » của Nguyễn Tư Nghiêm không giống tranh Tết hiện hành của nhiều đồng
  nghiệp Việt Nam, mà lại gần với những « thú vật đồ » (bestiaire)
  trong truyền thống phương Tây, mà các họa sĩ hiện đại trên thế giới thường vẽ
  lại. Sự trùng hợp là do niềm đồng cảm thẩm mỹ chung cho một thời đại chứ
  không phải là sao chép lẫn nhau. 
  
  
  
Đồng thời đây đó, ông có khuyên
  giới họa sĩ trẻ nên bảo vệ và phát huy mỹ quan dân tộc, như vậy là đúng đường
  lối, và là thống nhất lời nói với việc làm, lý luận với thực hành ; kỳ
  thật đây là hai phạm trù khác nhau. Không phải nói đúng là vẽ đẹp. Do đó, mà
  chúng tôi cho rằng trong sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tư Nghiêm không có
  « ý chí bảo thủ ». Còn ngoài đời, ông nói gì lại là chuyện bên lề. Quan
  niệm nghệ thuật và giá trị nghệ thuật của họa sĩ nằm trong bức tranh, chứ
  không phải trong lời nói. Thơ, tiểu thuyết cũng vậy thôi. Nói chung, làm cái
  gì, thì mình phải là mình trước đã (dĩ nhiên khi « người ta » cho
  phép : sự đời vẫn thế). Ngày nay, tranh Nguyễn Tư Nghiêm được
  đánh giá cao, liên tiếp nhận nhiều giải thưởng như giải nhất triển lãm Mỹ
  Thuật toàn quốc, với tác phẩm « Gióng » 1990, và giải
  thưởng  Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật, 1996Mùa Xuân năm Quý
  Tỵ này, họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm lên 96 tuổi ta, xưa nay hiếm có. Chúng
  tôi chưa nhận được tranh Rắn năm nay ; bức tranh Tết mới nhất chúng tôi
  có được là tranh Hổ năm Canh Dần 2010. So với tranh cọp những giáp trước, thì
  bức tranh Cọp « Thiên hình » này phảng phất nét chân dung tự
  họa, như tranh Cọp trong tuyết, 1849, Hokusai vẽ lúc cao niên, xem rất
  xúc đông.   
Từ chốn tha hương, hậu sinh cầu
  chúc họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm một năm 2013 : tâm lực, trí lực, thần lực
  và bút lực dồi dào, chén Xuân tàng tàng, tình Xuân ăm ắp. 
  
Paris, Tết Quý Tỵ 2013 
 | 
 
No comments:
Post a Comment