LX: được sự đồng ý của nhà văn Nhật tuấn, chúng tôi sẽ lần lượt
giói thiệu một tiểu luận văn học của anh có tên là Trí khôn các bác để
đâu ( tiếp theo kì trước )
“
cưỡi con dế mèn bay đi khắp thế gian…”
Sinh thời, ông trùm văn hoá mác xít Việt Nam, nhà phê bình văn học Như
Phong “khái quát “ về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn trong có mỗi một câu :“thằng
ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.Văn chương thì khoan nói tới, nhưng về cái
sự khôn lỏi, láu cá đầy phong cách tỉnh lẻ chỉ Hội nhà văn phải lấy
“ông này tiên sư”.
Thời bao cấp, được đi nước ngoài “tham quan, hội thảo,
gặp gỡ” ( hồi đó chưa có từ “giao lưu”) là một mơ ước xa vời vợi đối với các
bác có chân trong Hội nhà văn Việt Nam. Bởi lẽ từ khâu đầu tiên được Ban đối
ngoại Hội dự kiến, Ban thường vụ Hội duyệt rồi qua Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Bộ
Ngoại giao rồi tới Vụ Văn Nghệ, Ban tuyên giáo trung ương , Ban bí thư…là
cả một “con đườùng sấm sét”
” với muôn vàn trắc trở. Cử ai đi chứ cái thằng
cha X. này phải coi lại nhé. Nghe nói tư tưởng “có vấn đề ”. Nghe nói phát ngôn
lung tung. Nghe nói viết lách không rõ ràng…Bằng ngần ấy ông “gác cửa”, chỉ cần
một ông “ phán cho một câu” là rớt đài…đợi chuyến sau. Âùy vậy mà lọt qua được
bằng ấy cửa tử rồi, vẫn cứ phải chờ “anh Lành “ ( tức đồng chí Tố Hữu ) gật cho
một phát mới gọi là tạm yên tâm và bắt đầu hồi hộp chờ nhận comlê, cavát cùng
là hộ chiếu, vé máy bay đợi ngày xuất ngoại.
Hội nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 Hội viên mà hàng năm chỉ có dăm
bảy suất đi nước ngoài, bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh tử, giành giật âm
thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh. Nhà văn nổi tiếng và có
nhiều tác phẩm giá trị như Nguyễn Thế Phương, tác giả tiểu thuyết “Đi bước
nữa”, “Đào chèo”…mà đến tận cuối đời mới được một xuất đi Trung Quốc ngắn ngày,
còn nhà thơ Quang Dũng, từ “ Đôi mắt người Sơn Tây” tới “Nhà Đồi” , viết lách
cũng tới cả ngàn trang văn học cách mạng mà …chưa ra khỏi biên giới lần nào. Ấy
thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại tới …
105 lượt( một trăm lẻ năm ), đủ các nước Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi…, mà sự
nghiệp của bác xem ra đỉnh cao nhất cũng chỉ là truyện vừa “Dế mèn phiêu lưu
ký”. Bởi thế dân gian mới có câu :
“Đảng đoàn là Đảng đoàn Thông,
Ở đâu có rượu là ông tới liền
Đảng đoàn làø Đảng đoàn Hoài,
Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”
Hồi đó ông nhà thơ Hoàng Trung Thông và ông nhà văn Tô
Hoài đều có chân trong Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam . Các bác Hội viên “ cả
đời chưa một lần đặt đít lên ghế tàu bay” phải ca cẩm :” cái thằng ranh
ma thế , có mỗi con dế mèn mà bay khắp thế gian” . Xem vậy đủ hiểu bác Tô Hoài
luồn lách, chen lấn , đội đạp phải cỡ cao thủ võ lâm mới lập kỳ tích số lần đi
nước ngoài đáng đưa vào Ghi-Nét Hội nhà văn Việt Nam như thế.
Vậy nhưng cái tính “ngoại ô láu cá” ấy của bác Tô Hoài chẳng phải do
cách mạng hun đúc nên mà ngay từ hồi còn phong kiến đế quốc bác đã mang nó
rồi. Ngày nay đọc lại “Dế mèn phiêu lưu ký” mới thấy “anh Sen làng Nghĩa Đô” (
tên thật của tô Hoài) đã ranh ma từ độ ấy, mới giật mình, sao chú dế oắt “ngoại
thành” này “khôn lỏi” thế ? Lo toan cho cái thân mình thế ? Mới nứt mắt chú đã
: “Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất
để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo
xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con
đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có
thể thoát thân ra lối khác được…Bởi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên
tôi chóng lớn lắm…” Quân tử “phòng thân” từ thủa ấu thơ kỹ lưỡng vậy trách gì
khi trưởng thành chẳng rút ngay bài học “chui tọt ngay” vào hang sau khi lớn
giọng trêu chị Cốc “ vặt lông cái Cốc cho tao, tao nấu tao nướng, tao xào tao
ăn” để mặc thằng Dế Choắt bị chị Cốc “giận cá chém thớt” mổ cho đến chết, trong
lúc đó Dế Mèn ta “ lên giường nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ”, thây kệ thằng Dế
Choắt ăn đòn thay mình.
Sau này, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho dù chàng Dế Mèn chẳng dám chọc
tức Đảng câu nào, nhưng cũng “tự đấm ngực nhận lỗi” trên báo Nhân Dân số ra
ngày 12 tháng 3 năm 1958 :
. “Tư
tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà
Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã
tạo điều kiện cho khuynh hướng tư tưởng nhóm ấy lợi dụng diễn đàn báo Văn và
một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc
quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước tình
hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế
quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc
tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong
văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tưởng đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi
cho địch.
“ Rồi thì thây kệ chị Cốc cứ mổ la liệt cá chàng dễ choắt, Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… đuổi đi đào đất, vác than. Chàng Dến Mèn chui tọt
ngay vào cái hang “ đề tài miền núi” viết toàn chuyện “quan thống lý Pá Tra”
đàn áp , bóc lột “vợ chồng A Phủ” tức “người Mèo ta khi chưa có Đảng”,
tránh xa mọi chuyện hiểm nguy nới phố thị, tha hồ cho “chị Cốc” hoành hành,
chàng cứ ung dung “toạ hưởng kỳ thành”, vắt chân chữ ngũ lâu lâu lại “cưỡi con
dế mền ” bay đi tham quan nước bạn. Thành công đó là nhờ Tô Hoài đã rút “kinh
nghiệm” của chú Dế Mèn ngày xưa : “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà
không biết nghĩ, sớm muộn gì cũng mang vạ vào thân”. Cái đám Nhân văn Giai Phẩm
kia đúng là “hung hăng bậy bạ”, “có óc mà không biết nghĩ” , “ Ôi thôi, chú mày
ơi. Chú mày có lớn mà chẳng có không” (lời Dế Mèn dậy Dế Choắt) thì bị Đảng cho
ăn đòn còn oan nỗi gì ? Phải khôn ranh, láu cá thì mới giữ được thân, hưởng lộc
dài dài, chẳng thế mà hiền lành như nhà văn Bùi Hiển cũng phải than :” Tôi lại
có cảm giác là anh ( Tồ Hoài) có khuynh hướng hơi e ngại, hơi dè chừng…”. Giống
như chú Dế Mèn trong suốt cuộc phiêu lưu , chẳng thấy “hành hiệp giang
hồ”, đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu đuối, toàn đi “chọi “ với Cào Cào , Châu Chấu …mà
cứ hễ thua là bỏ chạy, Tô Hoài cũng vậy, suốt cả mấy thập kỷ ngồi ghế “lãnh đạo
văn nghệ” (hết Hội nhà văn Trung ương lại tới Hội nhà văn Hà Nội), bao nhiêu
nhà văn Hà Nội bị “Cốc mổ” như Xuân Khánh, Châu Diên, Vũ Bão, Lê Bầu…mà
chưa lần nào thấy ông Dế Mèn lên tiếng bênh vực đàn em, chưa kể có khi còn xúi
“chị Cốc” mổ thêm cho chết. Hoá ra “ triết lý con lươn” của Nguyễn Khải – cứ
gặp rắc rối là tiết chất nhờn lủi mất, còn thua xa bí kíp “chui tọt xuống hang”
của bác Dế Mèn. Cứ chữ “thọ” đeo sau lưng, Nhân văn –Giai Phẩm lủi lên Tây Bắc,
Mỹ đánh miền Hà Nội , chuồn lên rừng… cứ thế làm gì bác chẳng lập kỷ lục
Ghi Nết “hễ đi nước ngoài là có ông ngay”.
Vậy nhưng “cứ tọt xuống hang” vậy rồi sự nghiệp văn
chương chữ nghĩa của bác rồi sẽ đi về đâu ?
Nhìn vào bản liệt kê các tác phẩm
đã xuất bản của Tô Hoài, ta phải ngả mũ bái phục về khối lượng đồ sộ của “lão
nhà văn” tuổi ngoài tám mươi vẫn viết không ngưng, không nghỉ :
“Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Ngược sông Thai, Đại đội
Thăng Bình, Xuống làng, Truyện Tây Bắc , Khác trước, Võ tỉnh, Người ven thành,
Mười năm, Miền Tây,Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ, Những ngõ phố, Người đường phố,
Thành phố Lêningrat, Trái đất tên người, Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con
mèo lười, Trâu húc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Nhả chữ vân vân…”
và gần đây nhất là hồi ký “ Cát bụi chân ai”.
Tuy nhiên, trong tập thơ “ Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân
Sách khái quát sự nghiệp văn chương của Tô Hoài, còn lại với thời gian
chỉ dăm ba cuốn :
“ Dếâ mèn lưu lạc mười năm
Để cho “O chuột” ôm cầm thuyền ai ?
Miền tây trăng đã tàn phai
Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”
Những “Dế mèn phiêu lưu ký”, “O chuột” ,“Giăng thề” được viết từ
trước cách mạng 1945 khỏi nói tới, sau đó dù có viết tới vài ngàn trang, theo
cách nhìn nhận của nhà văn Xuân Sách, Tô Hoài còn lại có “Mười năm”, “Miền tây”
và “Đảo hoang”.
“ Mười năm” là cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang viết về làng Hạ gần Hà Nội
vào thời kỳ (1936-1945), tức là thời kỳ Mặt trận Bình Dân tới Cách mạng tháng
Tám. Cái làng nghề dệt lụa này đang vào thời kỳ suy sụp, khung cửi xếp xó, xóm
làng xác xơ gây nên thảm trạng “con đánh bố”, “trai gái sắp chết đói vẫn
đòi ngủ với nhau”… ” Có áp bức là có đấu tranh”, thế là đám thanh niên trong
làng như Lê, Lạp, Trung quên cả đói “chơi trò” trốn thuế, diễn kịch, lập
hội Ái hữu, rải truyền đơn…và sau “Mười năm” trui rèn trong lửa cách mạng, Lạp
và Trung đã trở thành “đảng viên cộng sản lãnh đạo quần chúng cướp chính
quyền ở xã và phủ”, còn chị Hai Tâm, goá chồng, dâm đãng, bị một thằng đểu nó
lừa…sau này cũng trở thành đảng viên cộng sản, có chân trong Đội Danh dự làm
“công tác đặc biệt”. Vậy là mọi ngả đường của phần lớn các nhân vật đều
đi tới …vào Đảng cộng sản cả. Ca ngợi đến mức đó mà “Mười năm” vừa mới ra
lò đã bị Như Phong, nhà phê bình mác xít “choang cho một búa “ :” Phong
trào cách mạng của ta trong thời kỳ ấy, nếu ai muốn tìm hiểu nó trong cuốn
“Mười năm” thì sẽ luôn luôn gặp những hình ảnh rất lạ lùng, lờ mờ, nguệch ngoạc
và có khi méo mó đến làm ta sửng sốt được…”. Nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ
thì răn đe :” Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết
hồn nhiên, tự phát, kinh nghiệm…mà đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc về những
quy luật xã hội, một trình độ tổng hợp và khái quát ngày càng cao…”. Ôi thôi,
thế mới biết đi theo đường lối văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Đảng đâu
có dễ. Nào nhận thức quy luật, nào tổng hợp, nào khái quát, các nhà văn đi theo
cách mạng đừng có tưởng bở dễ ăn theo được Gorki, Sôlôkhốp, Fađêép …những nhà
văn cộng sản lẫy lừng thời đó. Vậy là “Mười năm” đã bị “khai đao”
ngay từ lúc mới sinh và cho tới bây giờ đọc lại thấy vẫn “đầu Ngô mình Sở”, may
ra còn được vài trang tả cảnh “ những phiên chợ lụa, những chái nhà sâu dặt dìu
tiếng khung cửi, những mảnh sân vào những đêm trăng cuối thu thoang thoảng mùi
hoa thiên lý , hoa cau, hoa ngọc lan, hoa móng rồng”.
Viết chuyện “ngoại ô” xem ra khó xơi, Tô Hoài “láu cá” (chữ của Như
Phong) phóng tuốt lên rừng viết truyện “ Miền Tây” giàu chất phóng sự, báo chí hơn
là tiểu thuyết. Nếu như trước cách mạng, Tô Hoài thường đi sâu miêu tả cá nhân
trong thân phận mỗi người, sang “thời đại mới”, ông sốt sắng đi theo con
đường hiện thực XHCN theo cách hiểu của ông, chuyển hướng sang “phản ánh” cả
một phong trào, một thời kỳ cách mạng. Bởi thế cái đích ngắm của ông trong
“Miền Tây” là “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp ở các vùng
cao những năm 1954-1957 giữa một bên là “bọn phản động” Đèo văn Long, Mùa Sống
Cổ…”xưng vua” và một bên là nhân dân và chính quyền cách mạng. Tiếc thay,
“phe phản động” chẳng thấy đâu, hoặc chỉ là những bóng ma lẩn khuất trong rừng
đâu có dễ dàng lộ diện cho nhà tiếp xúc để mà “ nhận thức quy luật”,
“khái quát” để mà “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go”, bởi thế Tô Hoài phải
dùng lại cái “chiêu” cũ : mô tả cái đói cái cơ cực trước cách mạng và cái “đổi
dời” khi cách mạng về của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, gọi là “bám rễ” ở vùng
cao, Tô Hoài cũng chỉ quẩn quanh ở các trụ sở Uỷ Ban, Đảng uỷ…gặp gỡ các “nòng
cốt” của Đảng chứ đâu có “ba cùng” được với bà con trong bản. Bởi thế nhân vật
trong “Miền Tây”, dù cho có là nhân dân lao động đi chăng nữa cũng được sản
xuất theo một công thức : cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về như
là “ Vừ Soá Toả, suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày cho thống lý, bây giờ trở thành
Chủ tịch xã…” “ Thào Khay , con bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán
bộ của Đảng, có chân trong châu uỷ Châu Mộc…” vân vân và vân vân. “ Nhân
vật” trong tiểu thuyết Miền Tây đã hiếm hoi nhưng lại được đúc ra từ một khuôn
kiểu vậy, bù lại, lấp cho đầy những trang giấy, Tô Hoài đi sâu vào “tả cảnh”. “
Những đêm đầu mùa hè mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những
cánh rừng tít tắp chân mây , những thung lũng làng mạc xa lạ…”,”Bóng tối trĩu
nặng từng quãng nhanh và dữ dội , gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa
các triền núi , những dòng suối chảy ra lưng trời, chảy ngang người ngang
ngựa…”. Tuy nhiên, những đoạn văn có mùi Nguyễn Tuân như thế rất hiếm hoi, còn
thường là Tô Hoài dùng “thủ pháp đen trắng”, so sánh “ngày ấy, bây giờ” :”
Trước kia mỗi phiên chợ Phiềng Sa, người đói muối đông nghìn nghịt chen chúc
nhau, chồng đống lên nhau như đá đè, tiếng chửi rủa kêu khóc vang cả một góc
núi. Bây giờ những ngày phiên chợ giáp Tết là những ngày hội tưng bừng của các
dân tộc vùng cao. Sự thật kỳ diệu nhất sau ngày giải phóng là sự thay đổi
vận mệnh của những con người, những người nô lệ bây giờ đứng lên làm chủ đất
nước…”. Chẳng hiểu có cái gì làm ông nhà văn bốc đồng đến thế, quên ngay mình
đang viết tiểu thuyết mà nhảy phắt sang viết…xã luận đăng báo Nhân Dân.
Khởi nghiệp bằng truyện con nít, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã đưa mình đi
khắp thế gian, Tô Hoài không quên xuất xứ, nên trong sự nghiệp văn chương của
ông có tới trên 40 dầu sách viết cho thiếu nhi. Thế nhưng chất nhân văn của chú
Dế mèn và cô Chuột ( O chuột) dường như ngày càng lấn át bởi chất “chính trị
“như trong “Vừ A Dính”, “ Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ”, “ Kim Đồng” nên những truyện
kể con vật như “Chú mèo lười”, “Trâu húc”,” Người đi săn và con nai”, “ Voi
biết bay”, “Hổ và Gấu đi cấy”…còn lâu mới tới chú Dế mèn và cô Chuột. Đó
là chưa kể trẻ con ngày nay đổ xô tìm đọc những Đôrêmôn, Harry Potter…cùng lắm
là Nguyễn Nhật Ánh dẫn tới nguy cơ “mặt hàng giành cho thiếu nhi” của nhà văn
Tô Hoài không khéo bị lưu kho. “Đảo hoang” là “tiểu thuyết thiếu nhi” được nhà
thơ Xuân Sách nhắc tới trong thơ “ Chân dung nhà văn” cũng được viết theo
truyền thuyết An Tiêm nhưng còn thua xa “Quả dưa đỏ” của Phạm Trọng Luật ngày
xưa. Trong “Đảo hoang”, Tô Hoài đã tuỳ tiện “sáng tác “ thêm hai nhân vật là
Mơn và và Gái – con trai, con gái của An Tiêm. Rồi trên hoang đảo lại có thêm
một chàng trai tên Mali từ đâu dạt tới để sau này cùng với cô Gái sánh
duyên đi xây dựng…miền đất mới. Cái “cảm hứng” xây dựng miền đất mới , cuộc
sống mới, con người mới, xã hội mới này làm cho những “tiểu thuyết thiếu nhi”
của Tô Hoài nặng về giáo dục làm mệt đầu con nít vốn đã bị nhà trường nhồi nhét
đủ thứ “mới” ở trên đời. Bởi thế chúng nó bỏ anh Dế Mèn chạy về với
những Đôrêmôn, Harry Potter, Tom & Jerry…thì cũng là…quy luật tất yếu của
cuộc sống…
Mới đây, nhân dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện
Biên, Báo Văn Nghệ Trẻ số ra ngày 23-4-04 có đăng bài phỏng vấn Giáo sư Phong
Lê về “ Văn học nhữõng năm kháng chống thực dân Pháp – BÂY GIỜ NHÌN LẠI” . Nhà
nghiên cứu văn học này phát biểu :” Đến Giải thưởng 1954-1955 với “ Việt bắc”
của Tố Hữu, “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc, “Truyện Tây bắc” ( giải nhất)
của Tô Hoài thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh
quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất
trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.
Vậy là trong “thơ chân dung” nhà văn Tô hoài
, nhà thơ Xuân Sách đã quên một tác phẩm mang tầm vóc dấu mốc của văn học chống
Pháp – “ Truyện Tây Bắc”. Vậy nhưng tác phẩm này có tương xứng với những lời
tâng bốc của ông Giáo sư ? Đó là một tập truyện ngắn Tô Hoài viết
vào những năm 1953-1955 tiếp tục đề tài miền núi trong những tập “ Núi cứu
quốc” (1948), Xuống làng (1949) rước đó. Tuy nhiên, như Giáo sư Phan Cự Đệ
khẳng định:” Đến “Truyện Tây Bắc” mới là tác phẩm cắm mốc , khẳng định vị trí
của Tô Hoài trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tại sao một tập
truyện ngắn đường rừng rất xa trung tâm của cuộc kháng chiến - những vùng chiến
sự ác liệt nơi đồng bằng, trung du…lại được tôn vinh “cắm mốc” ? Đó là do
“…thông qua hành động thực tiễn, đường lối giai cấp và đường lối dân tộc của
Đảng , tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân
tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là
bọn quan bang, quan châu, phìa tạo, thống lý …” như GS Phan Cự Đệ nhận
xét. Vậy là khác với những truyện đường rừng ngày xưa của Lan Khai, “Truyện Tây
Bắc” của Tô Hoài có”giá trị cao” là vì “thấm nhuần đường lối của Đảng”.
Thảo nào trong hai truyện được coi là xuất sắc nhất trong cả tập là “Cứu đất
cứu mường” và “Vơ ïchồng A Phủ” hễ cứ là “phong kiến” thì cực kỳ tàn bạo,
gian manh, còn nhân dân lao động thì tốt thật tốt.
Trong “Cứu đất cứu Mường”, có“Cô Áng ngày xưa đã một thời đẹp nức tiếng
đất Mường Cơi”, thế rồi bông hoa rừng ấy lọt vào tay quan tri châu Né “tối ngày
ngồi một xó nha, rót nước, nướng thịt, bưng xôi, đun nước tắm …con mắt mờ mịt…”.
Cái ông quan tri châu này chẳng hiểu có thực ở trên đời không mà bao kẻ hầu
người hạ đâu hết lại bắt “mỹ nhân” làm chuyện tay chân đó ? Cái ”tình huống ban
đầu” đã nặng mùi giả dối, ấy thế rồi sau 10 năm đầy đoạ,“bông hoa rừng” được
thả về làng mang theo hai con nhỏ ( con quan chẳng hiểu vì sao bị đuổi khỏi nhà
) vẫn còn…trẻ, đẹp để mỗi lần các quan đi săn ghé qua vẫn bị lôi đi hầu quan.
Thế rồi nàng Ảng khổ quá phải cho đi một đứa con trai tên Nhấn , còn đứa con
gái lại phải làm tôi tớ cho thằng con chồng là Cầm Vàng, sau này dẫn lính về
cướp bản, nó chỉ mặt Ảng chửi :” Con gia øMường này rồ thật” rồi vung roi
lên đánh. Chẳng hiểu sao “quan bố“ “quan con” lại xấu đến thế ? Riêng thằng
Nhấn- đứa con đã cho đi của nàng Ảng, lớn lên được anh cán bộ tên Sơn giác ngộ cách
mạng trở thành du kích và bộ đội cụ Hồ. Thế còn cô em gái phải làm tôi mọi cho
quan ? Không thấy tác giả nói tới và thằng anh ruột đi bộ đội cũng…quên cô luôn
(có lẽ do cô đã thuộc thành phần…nhà quan).
Trong “Vợ chồng A Phủ” cũng có một nhân vật na ná như
nàng Ảng nhưng có phần may mắn hơn. Cô Mỵ cũng là một “bông hoa rừng”, cũng bị
bắt về lấy con quan thống lý là A Sử. Lạ một điều là cưới được “mỹ nhân”
mà thằng chồng vẫn hành hạ, ngược đãi cô vợ trẻ đẹp coi cô như trâu như ngựa
khiến cô hái nắm lá ngón dắt trong người, mấy lần tính ăn để tự tử cho
thoát kiếp tôi đòi. Thế rồi đến ngày Tết, A Sử đi chơi xa vài ngày, đã không
cho vợ đi theo hắn còn trói nàng lại ở cột nhà ,” xách cả một thùng sợi đay ra
trói đứng, tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mỵ không cúi,
không nghiêng được đầu nữa…” . Trói vậy, không ăn không uống liền mấy ngày,
chắc chắn khi A Sử đi chơi xa trở về, cô vợ xinh đẹp đã thành cái xác không
hồn. Người ta chẳng hiểu vì sao chỉ cốt cô Mỵ không đi theo mà A Sử lại hành
động như một kẻ giết vợ như thế ? Thôi đành chỉ tự hiểu đã là con quan thì
thằng A Sử phải tàn ác, phải coi người như trâu chó, kể cả vợ mình. Vậy mới là
“thấm nhuần quan điểm đấu tranh giai cấp”. May cho nàng Mỵ, thằng chồng chỉ đi
một ngày một đêm đã trở về không phải vì lo nàng chết mà chính vì
lúc chơi trong hội tết nó bị một thanh niên trong bản đánh vỡ đầu. Mãi
lúc đó, nàng Mỵ mới được nhà quan phát hiện đang bị trói và được cởi để
đi hái thuốc chữa trị cho chồng. Còn anh thanh niên kia, tên A Phủ, bị ông
”quan bố” Pá Tra trói gô “sọc ngang cái gậy, khiêng về ném giữa nhà “. Thế là
từ đó, A Phủ phải ở lại nhà thống lý Pá Tra làm trâu làm ngựa đề đền tội đả
thương con quan. Một năm kia, đàn ngựa A Sử được giao chăn dắt bị hổ vồ
mất một con. Thế là luôn trong mấy ngày, A Phủ bị trừng phạt trói đứng trong
góc nhà nhịn ăn nhịn uống. Trong lúc đó, đêm đêm nàng Mỵ ngồi bên bếp lửa suy
nghĩ :” Chúng nó thật độc ác . Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết
đau, chết đói , chết rét, phải chết…Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma
nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì mà
phải chết thế …A Phủ…”. Thế rồi nàng Mỵ rút con dao cắt dây trói cho A Phủ trốn
và bất ngờ øcô chạy theo :” A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”. A Phủ chợt
hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. Và hai người lẳng lặng đỡ
nhau lao chạy xuống dốc núi. Họ trở thành vợ chồng ngay trên đường trốn chạy và
một tháng sau họ đã thoát được sang vùng tự do. Truyện ngắn lẽ ra là kết thúc ở
đây trang thứ 20 – nhưng không, Tô Hoài còn kéo dài thêm 20 trang nữa kể chuyện
“vợ chồng A Phủ đổi đời trong cách mạng” vậy mới đúng phương pháp hiện thực
XHCH. Sau vài năm xây “tổ ấm”, vợ chồng A Phủ đã có mái nhà,có khung cửi, có
lợn trong chuồng. Ấy thế rồi một hôm quan Tây dắt lính nguỵ tới cướp bản, dắt
đi hai con lợn lại còn bắt A Phủ đi theo để khiêng lợn xuống đồn. Từ đó trong
anh nung nấu lòng căm thù quân Pháp xâm lược, may thay một hôm có A Châu, cán
bộ cách mạng tìm tới giác ngộ:” Bao giờ nhân dân ta lấy được độc lập thì vợ
chồng A Phủ về quê tôi chơi. Bấy giờ tha hồ đi, đâu cũng được ở yên ,làm ruộng
làm nương, làm buôn làm bán, đâu đâu cũng sung sướng như nhau…” . Và ta cũng có
thể đoán ngay được phần kết của “truyện ngắn kéo dài” “Vợ chồng A Phủ”. Bản
làng trở thành khu du kích, cuộc sống vừa sản xuất vừa chiến đấu thật là vui
vẻ, tươi sáng và tất nhiên A Phủ trở thành một chiến sĩ du kích xuất sắc.
“
Truyện Tây Bắc” – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp
văn học cách mạng của Tô Hoài, tác phẩm đánh dấu mốc mở ra thời kỳ văn
học hiện thực XHCN Việt Nam là như vậy. Văn chương dễ dãi, chẳng “đẽo gọt” như
Như Phong nhận xét, nội dung sơ lược, mang nặng mục đích tuyên truyền chính
sách dân tộc miền núi của Đảng, bỏ qua tính chân thực vốn là cốt lõi của văn
chương, viết theo lối viết “địch - ta” rạch ròi, vạch một ranh giới tuyệt đối
giữa các nhân vật và chỉ chấp nhận họ hoặc ở phe này hoặc phe kia. Rút cuộc,
“đỉnh cao sự nghiệp Tô Hoài “ vốn ra đời theo yêu cầu nhất thời của cách mạng
đã bị thời gian đào thải, ngày nay, ngoại trừ những học sinh và sinh viên
phải làm bài, khó có ai đủ kiên nhẫn để thưởng thức nó.
Trong thời cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói”
cho văn nghệ sĩ, hội chứng “phản tỉnh” không chỉ nảy nòi ở các nhà văn trẻ ,
một số cây đa cây đề cũng bị nhiễm “con virus” này, viết bài “tự chỉ trích”
hoặc “phân bua” với thiên hạ mình cũng suy nghĩ độc lập lắm đây. Chế Lan Viên
có bài “ Bánh vẽ”, Nguyễn Minh Châu có “ Đọc lời ai điếu cho một nền văn học
minh hoạ”…mới đây Đào Xuân Quý có “ Nhớ lại”. Tuy không nặng mùi “ phản tỉnh”,
nhưng Tô Hoài cũng viết một cuốn hồi ký dầy cộp – “ Cát bụi chân ai”, nói rõ
một số chuyện xoay quanh vụ Nhân văn Giai phẩm, “dựng lại chân dung” một số nhà
văn “cây đa cây đề” làm xôn xao dư luận một thời.
Trước khi đưa ra một số tình tiết “phản kháng” của văn
nghệ sĩ trong vụ án văn này, Tô Hoài “thủ” trước một lập trường chính trị vững
vàng theo Đảng :
” Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài
bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số
giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các
đô thị lúc ấy….không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những
hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên,
trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và
ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính
trị dựa vào “trăm hoa đua nở”. “
Vậy đã rõ ràng, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Tô Hoài
trước sau vẫn vững “lập trường cách mạng”, không có “phản tỉnh”, “phản mê” gì
hết. Tuy nhiên ông cũng đưa ra một vài hồi ức cho thấy không phải nhà văn nào
cũng “vững vàng” như ông.
Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng ba năm 1958 có đăng bài “
Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và công tác “, Tô Hoài sát phạt anh em
:”càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không
phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống
lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển
mạnh.” và tự kiểm thảo :”Tôi đã đánh giá thấp những hoạt động của tư
tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh
dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng
mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước
tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.”
Tô Hoài nhớ lại , ngay sau khi đọc bài báo :
“Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào
mặt tôi:
- Tiên sư mày, làm thằng Câu Tiễn ông thì không,
Nguyên Hồng thì không!
Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế,
khóc thút thít.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam?
- ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng
mày nữa. Ông về Nhã Nam.”
Phải chăng mượn lời Nguyên Hông , 42 năm
sau, Tô Hoài đã “chữa khéo” hành động của mình trong vụ Nhân Văn hồi đó là “
Câu Tiễn” ?
Trong những năm tháng “ khó khăn “ đó, Tô Hoài kể lại “ hai hoạ sĩ Nguyễn
Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ
nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra
Đảng”; Dương Bích Liên đã vẽ “một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh
lét cả tóc” có tên là “Hào” bị loại khi mang ra triển lãm; Nguyễn
Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá.
Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn.
Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến ; Nguyễn Huy Tưởng thì “mấy
đêm không chợp mắt được. … Nguyễn Huy Tưởng nói:”Nước Hungari trong phe
xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế
nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.”…Nguyễn Huy
Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các
báo.Tôi đùa:” Ông là thằng cộng sản dân tộc”.Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.:”
Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải, Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt
Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.”.Nguyễn Huy Tưởng nói nho
nhỏ, cặp mày rậm nên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao
giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.”, Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm, Phùng
Quán bị tước hội tịch trong 5 năm nhưng “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm
không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không
phải chỉ ở tâm trạng mấy ông “Nhân Văn cả nước”, mà tràn lan đến những “Nhân
Văn phố, Nhân Văn xóm”, chẳng bị kỷ luật gì, nhiễu người không phải vì bài văn
câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn.”,
khi nhà học giả Phan Khôi mất “ đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với
một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu”. Nhớ lại Phùng Cung, tác giả “Con
ngựa già của chúa Trịnh”, 11 năm tù biệt giam, Tô Hoài ngậm ngùi : “ Phùng Cung
công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở
rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm
sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên
hoan..Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân
Văn tôi cũng gật gù. “ Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm
nên cháo đấy, con ạ.”.Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào
mà bị bắt.Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ,
mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy
chì mờ mờ.”
Cũng trong cái thời nhà văn bị theo dõi tới từng câu từng chữ ấy, Tô
Hoài nhớ lại :
“Có một thời, những
người “theo dõi” báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính
gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không.
Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người
ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò
tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt
khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. Không biết vì tổ chức đặt ra công
tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được làm thầy thằng bị
(được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường chưa bao giờ giảng
cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý nghĩa, trước hết bài
văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo
dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu
kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:
- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi
chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi!
Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có
gì khác.
- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn
trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi.
Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:
- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ,
tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình…”
Những trang viết thực như vậy quả là những tư liệu
đáng quý trong lịch sử văn học Việt Nam, tuy nhiên, cuốn “ Cát bụi chân ai” của
Tô Hoài lại gây xôn xao bạn đọc ở phần “bật mí” những khía cánh riêng tư của
các ngôi sao văn học. Chẳng hạn tuy Nguyễn Tuân được tiếng là “tài tử”
nhưng lại rất kỹ tính “ Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường
Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi, nhưng vẫn lại là về rừng,
lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc màn, không quên chiếc bi
đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám các thứ lỉnh kỉnh, một
xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy thẻ hương mua thửa ở
hàng quen cửa chợ Đồng Xuân để…chống muỗi”.
Nhiều năm nay, thiên hạ đồn thổi về cái sự “tình trai” của Xuân Diệu,
trong “Cátbụi chân ai”, Tô Hoài đã huỵch toẹt ra chuyện đó :
“Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt
xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối…Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi
xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ… Chẳng còn biết
đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít
cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc
trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao,
tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt
lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn,
xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. …
Thực là một trang đặc tả mà ngay đến các cây bút “hậu
hiện đại” cũng chưa viết nổi. Còn chàng Hoàng Cát , một “tình trai “ của
Xuân Diệu, khi lên đường vào B được Xuân Diệu tặng thơ với lời yêu
đương thống thiết :
“ Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời…”
Ay thế mà khi Cát trở về Hà Nội viết “ Cây táo ông
Lành” đăng báo Văn Nghệ bị đòn hội chợ, Xuân Diệu đã quay ngoắt :’ Tôi không
biết thằng đó là ai ?”
Nhưng thê thảm nhất là kỷ niệm về Nguyễn Bính. Nguyên thời làm báo Trăm
Hoa, nhà thơ được một cô gái trẻ đem lòng yêu, và sinh ra một bé gáiï tên là
Hiền. Khi cháu mới bập bẹ, cô gái trả con lại cho Nguyễn Bính để đi bước nữa.
Thế rồi một đêm mưa, Nguyễn Bính bế con ra dốc hàng Kèn và trao cho một người
đàn ông qua đường nào đó. Oân lại chuyện cũ . Tô Hoài xót xa : “Bấm đốt ngón
tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu oan nghiệt tối hôm
ấy - nếu trời để cho được sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy
mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền
nhé…” Vâng tên cháu là Hiền, nhưng lẽ ra cần nói rõ, cháu là con gái của nhà
thơ dân tộc : Nguyễn Bính.
“ Cát bụi chân ai” dù thế nào, vẫn còn chút lòng nhân hậu và sự trung
thực trí thức của Tô Hoài. Chỉ tiếc nó được viết sau khi ông nhà văn đã rời bỏ
cái ghế Chủ tịch Hội văn Nghệ Hà Nội, nơi ông đã ăn dầm nằm dề cả gần hai mươi
năm nay. Giá như ông chịu treo ấn từ quan sớm, chắc sự nghiệp của ông
không chỉ còn lại với thời gian một “chú dế mèn”
21-4-04