Từ
thế kỷ 16 khoa học lên ngôi độc tài,
toàn trị" thống trị nếp suy nghĩ của loài người như sau :
1- Vũ trụ gồm những vật thể, những cố thể, những hạt rắn chắc có dung tích nhất định và tương tác với nhau qua các lực hút hay đẩy.
2- Người quan sát độc lập với các hiện tượng quan sát thấy trong thiên nhiên hay trong phòng thí nhiệm
3 - Không gian và thời gian là có đó, riêng biệt và độc lập đối với nhau và với con người.
1- Vũ trụ gồm những vật thể, những cố thể, những hạt rắn chắc có dung tích nhất định và tương tác với nhau qua các lực hút hay đẩy.
2- Người quan sát độc lập với các hiện tượng quan sát thấy trong thiên nhiên hay trong phòng thí nhiệm
3 - Không gian và thời gian là có đó, riêng biệt và độc lập đối với nhau và với con người.
Đến cuối thế kỷ 20 khoa học đã tự tát vào mặt mình khi :
1 - thuyết Tương đối, Cơ học Lượng
tử đã chứng minh Thời gian và không gian không độc lập với nhau và với con người Chúng không
có giá trị khách quan tự thân nào mà tùy thuộc vào người quan sát và nhất là chúng
có thể chuyển hóa cho nhau, là hai mặt của cùng một thực thể gọi là continum
.2 –Thí nghiệm khoa học cho biết tồn
tại Trạng thái "tù mù lượng tử”, trạng thái "ma" của những hạt
ảo, năng lượng ảo xuất hiện không biết từ đâu và rất nhanh biến mất không biết
về đâu, hệt như “ma” vậy!
Ngoài ra, vật chất, với ý nghĩa cố
thể hay tập hợp hạt bị "pha loãng" bởi trường: "Trong vật lý học mới, chỉ có Trường là thực tại duy
nhất", Vật thể với tư cách hữu thể có vị trí không gian và dung tích nhất
định không còn nữa, thay vào đó là "một cái biển năng lượng chẳng có ranh
giới gì rõ rệt với phần còn lại của trường" (H.Weil).
Tóm lại :
- Năng lượng hay Trường, đặc biệt
bao trùm trên tất cả.
Trường thông tin được xem là bản thể tối hậu,
còn có thể chỉ là hình ảnh rất thô được nhận biết bởi những giác quan, nói rộng
và chính xác, bởi những Thức rất thô của chúng ta, trong đó ý thức là cái có
tính năng "méo hình" nhiều nhất.
- Nhân quả chỉ là tiến trình mà sự
nhận biết gắn liền với chủ quan tính của người nhận biết, nó không phải là một
hiện tượng "tự nhiên" có tự tính và không phải không thể khác thế
(thế nào là tuỳ theo cấu thể của cá thể nhận biết).
Cận hiện tượng và Cận tâm lý
Bên cạnh hiện tượng mà chúng ta
thường xuyên tri giác được bằng sáu căn hay sáu thức: nhỡn, nhĩ, ty, thiệt,
thân, ý - và ta có xu hướng coi đó là cái thực duy nhất - còn có những hiện
tượng mà chúng ta không nhận biết bằng sáu căn hay sáu thức trên, nhất là khi
hình thức và nguồn gốc xuất hiện của chúng trái ngược với kinh nghiệm phổ biến,
với tri thức quan phương, với thực tiễn và nguyên lý khoa học, thì ta dễ có
khuynh hướng coi đó chỉ là ảo giác, ảo tưởng, tâm thần, mê tín, dị đoan..
Các Cận hiện tượng được phân làm hai
loại:
1 - Tâm Tác
Nhiều người có công năng đặc dị ở chỗ không
dùng bất kì công cụ hữu hình hay phương tiện vật chất nào mà vẫn tác động được
lên vật thể bên ngoài, thí dụ di chuyển đồ vật từ xa, bay lên trong không
trung... thành tựu cao nhất trong lĩnh vực này là "đảo hải di sơn",
"hô phong hoán vũ”. Hiện tượng này thường được biết dưới cái tên là P.K.
(psychokinésie). Vì ở đây cái Tâm là tác nhân duy nhất, "Bản chất của cái
Tâm là nó có thể hiện thực hóa được bất kì điều gì mà nó nghĩ đến với cường độ
tập trung đủ mạnh",
Thí
dụ về Tâm Tác
-
Bà Nina Kulagina (người Liên Xô cũ) đã nhiều lần chứng minh khả năng di chuyển
đồ vật theo những hướng khác nhau, làm quay tròn kim la bàn, làm dừng hoặc thay
đổi hướng chuyển động của con lắc, giữ quả bóng nhựa đứng yên trong không
trung... trước sự chứng kiến và kiểm tra của các nhà khoa học danh tiếng như
Vasiliev, Naumov, Sergeyev (thuộc Viện Sinh lý học A.A.Ukhtomaky (ở Lêningrat),
Adamenko, Vinogradova... và nhiều nhà khoa học nước ngoài như Zdenek (Tiệp), J.
G. Phút (Đại học Virginia), Ullmam (Trung tâm Y học Maimonides), H.H. J. Ren
(Đại học Tasman)...
-
Youri Geller làm dừng thang máy ở một cửa hàng bách hóa, lễ giáng sinh năm 1989
làm dừng đồng hồ Big Ben Luân Đôn, giúp khán giả ti vi chữa hàng vạn đồng hồ...
-
Nghiêm Tân từ xa biến đổi kết cấu phân tử của "dung dịch tinh thể định
hướng" có tính ổn định rất cao bảo quản trong tủ lạnh ở Đại học Thanh Hoa,
dưới sự theo dõi chặt chẽ của giáo sư chủ nhiệm khoa sinh. Hoặc trong hai mươi
phút "phát công" đã chắp lại và hàn gắn "hai xương bả vai bị gãy
rời, vỡ vụn, khớp vai phải thoát vị" cho anh công nhân Túc Binh bị tai nạn
lao động.
-
Vương Lực phát công làm tạnh mưa lúc 21 giờ ngày 14/9/1986 ở Bắc Kinh.
-
Cô bé Cơ Mẫn Kiệt mười ba tuổi ngồi yên vị trước mặt mọi người mà vẫn lấy ra
chất đống trước mặt nó tiền bạc, thuốc lá, sổ tay... của khán giả, hoặc lấy các
viên thuốc khỏi lọ kín mà lọ vẫn nguyên vẹn không vết nứt.
2 - Tâm Thụ -
Nhiều người có công năng đặc dị ở
chỗ tri giác được sự vật bên ngoài, dù xa, dù gần về mặt không gian, dù trước,
dù sau về mặt thời gian, sự vật ở bên trong thân hay bị che lấp bởi các thể cản
quang mà không dùng tới các cơ quan giác quan sinh lý hoặc dụng cụ, máy móc...
Thí dụ thần giao cách cảm, chỉ dẫn từ xa, nói chuyện vong, xem bói đoán mộng...
Cận hiện tượng này được gọi là Ngoại Cảm, tức là cảm nhận thông tin qua những
kênh bên ngoài các giác quan mà ai cũng có. Vì cái đứng ra cảm thụ ở đây chỉ là
cái Tâm
Tâm thụ thời gian là khả năng nhìn
thấy, nghe thấy... sự vật, vật thể trong thời gian dù thuộc quá khứ, dù thuộc
tương lai, dù thuộc hiện tại nhưng lại không có cách nào biết đến được.
Nếu như trong mọi hiện tượng Tâm tác
đều dễ dàng nhận ra vai trò của tâm trong trạng thái tập trung cao độ, thì hiện
tượng Tâm thụ có chiều khó hiểu, khó tìm được tác nhân hơn nhiều.
Tâm có khả năng "thụ” tối ưu
khi giống như một tấm gương được lau sạch bong, do đó tính năng phản chiếu hiện
thực chung quanh đạt trình độ tối ưu khi
nó rỗng rang, tịch lặng tối đa, nó sẽ trở thành một tấm gương cực khổng lồ, ôm
trọn cả vũ trụ, theo cả hai nghĩa không gian và thời gian, trong lòng nó, tức
là trở thành Đại Viên Cảnh Trí. Hiệu ứng ấy thành tự qua phép thiền gọi là Vô
Niệm, mà cứu cánh là Trí Tuệ Bất Nhã.
Thí
dụ về Tâm Thụ,
Hiện
tượng này có phần "phổ biến" hơn nhiều, sau đây xin dẫn một số thí dụ
để minh họa:
-
Nữ công nhân Vorobieva, sau một lần bị điện 380 volt giật chết rồi sống lại,
phát hiện thấy chị có khả năng nhìn suốt vào tận bên trong thân thể người khác
và lập tức chẩn đoán được bệnh của người đó, nhanh chóng và chính xác (100%)
hơn bất kỳ một thiết bị y học nào, đến mức chị được mời làm việc cho bệnh viện
thành phố. Giám đốc bệnh viện này phải nhận xét: "Vorobieva là một nhà
chẩn đoán bệnh có một không hai. Chị đã nhìn thấy cái mà những người khác không
nhìn thấy được".
-
Năm 1958, Công ty Westinghouse nhận nhiệm vụ của chính phủ Mỹ tiến hành thí
nghiệm về thần giao cách cảm, có sự tham gia của nhiều cán bộ cao cấp thuộc
hải, lục, không quân Mỹ. Cuộc thí nghiệm kéo dài trong 16 ngày kể từ 25/6/1958.
Người phát tin là Smith, Sinh viên Suke University, phải sống cách ly trong
phòng khóa kín, người nhận tin là trung uý hải quân Dions cũng bị cô lập trong
một cabin trên tàu ngầm nguyên tử Nautilus lặn sâu dưới đáy Đại Tây Dương cách
bờ biến Mỹ 2000 km. Kết quả Djons nói chính xác điều Smith nghĩ đến trên 70%.
Sau đó nhiều Công ty khổng lồ của Mỹ như General Electrics, Ben Telephone, Rend
Corporation... đều thực hiện những thí nghiệm thần giao cách cảm với kết quả
rất cao.
Nhóm
nghiên cứu Russel Targ, Elizabeth Targ và Kate Harary ở California cộng tác với
khoa lý thuyết Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô tiến hành khảo nghiệm trước nhiều
nhà khoa học và nhà báo Xô viết, khả năng "nhìn thấy” tương lai của nhà
ngoại cảm lừng danh Dinh Davitasvili đang ở Mátxcơva sau khi ông này đến đó.
Cả Tâm tác lẫn Tâm thụ, đều hoặc do
"tự nhiên", hoặc do tập luyện, mà có.
Như vậy cả cái "Tâm" vô
hình không trú xứ, cả cái "Linh" rất phi lý không tìm được, nay phải
nói rằng đã được chứng thực trên thực địa Cận hiện tượng,
Chúng ta vẫn thường nói đến hồn, đến
vía "Ba hồn, bảy (hoặc chín) vía".
Cái Tôi chân xác, khác với những cái
"Tôi" thường nhật có cấu tạo bằng chất liệu á vật chất giống như ête
mà vẫn có hiệu ứng vật chất đủ để mắt thấy tai nghe...
Vía không cần một xác thể sinh lý để nương
thân, vía vẫn tồn tại sau khi thân xác phân rã, cho nên vía cũng có thể là ma
hiện, là "hồn" người chết đền ơn, trả oán, là tác nhân của hiện tượng
động mồ, động mả.
Hồn gồm Sinh hồn, Giác hồn, và Linh hồn.
Sinh hồn tương ứng với phần nhỏ và thô nào đó
của hệ thần kinh thực vật,
Giác hồn với hệ thần kinh động vật,
Linh hồn là nguyên lý tồn tại và
động lực học của cả hai.
Khác với Vía, Hồn không phải là một
nhân cách, một sở thuộc cá nhân mà là năng lượng như nguồn gốc của hiện tượng
"sống", kể cả hiện tượng "ma".
Hồn là hình thái nguyên thuỷ, Hồn
tạm xem là trường
Vía chỉ là dẫn xuất đặc thù trước
khi mang một hành tướng thô là Thân Tâm. vía là năng lượng nơi một cá thể hữu
sinh,
Thân xác là vật chất.
Như vậy, tâm linh, tuy “linh"
tuỳ theo mỗi cá nhân, người này có thể "linh" hơn người kia, lại là
"hồn" phi nhân cách. Cái hồn ấy thị hiện như thế nào trong khi sống
là phụ thuộc vào Nhân, Duyên và Phận của mỗi người. Thị hiện không ràng buộc
sau khi chết với tư cách của "kí ức vũ trụ Akashique" hay trường
thông tin và đây mới là điều quan trọng nhất, thiết yếu nhất, Tâm linh
"linh" vì nó sắp xếp cho "cuộc sống sau cuộc sống”. Nói cách
khác, Tâm linh, bên cạnh những hành tướng khác, là một sự nhân cách hóa, thậm
chí ý chí hóa của luật luân hồi.
Thế kỉ 21 là thế kỉ tâm linh
Câu nói của cha ông ta ngày xưa:
"Khôn ngoan chẳng lại được với Giời",
"Khoa học của thế kỷ 21 phải
là khoa học tâm linh, nếu không sẽ không gì còn là khoa học nữa" (André
Malraux).
Đối lập với thân xác là Tâm Linh.
Tâm Linh cao hơn thân xác, trường
tồn hơn thân xác, nhiều hiệu năng, công năng hơn thân xác, thành tựu này sẽ đặt
cho mọi người yêu cầu hạn chế, thu hẹp... nhu cầu thỏa mãn khoái lạc vật chất,
khoái lạc giác quan như phương pháp duy
nhất để "trưởng dưỡng” Tâm Linh. Còn gì thanh bình hơn, hài hòa hơn một xã
hội sống trong giản dị, thanh đạm? Giản dị, thanh đạm không vì cái tiếng đạo
đức, cũng không chỉ vì hiệu quả dưỡng sinh, đó là con đường duy hất nhân loại để
tránh họa diệt vong.
No comments:
Post a Comment