Về một nhận định chung đối với văn hoá Trung
Hoa
Phải nhận là hiếm thấy ai biết kể về văn hoá Trung Hoa hay và lạ như Phan Ngọc. Tự nó, những sự kiện mà ông kể lại có thể đưa người ta đến những kết luận lý thú.
Phải nhận là hiếm thấy ai biết kể về văn hoá Trung Hoa hay và lạ như Phan Ngọc. Tự nó, những sự kiện mà ông kể lại có thể đưa người ta đến những kết luận lý thú.
Tiếc rằng ông lại tìm cách
khuôn nó vào những khái quát rất khó chấp nhận.
Trước hết về một nhận
thức tổng thể.
Không chỉ trong bài viết trên, mà trong nhiều trường hợp khác ( tập trung nhất
là trong cuốn Bản sắc văn hoá Việt Nam mà bài viết Văn hoá Việt nam
thiết tha với cuộc sống con người chỉ là một chương nhỏ ), Phan Ngọc nói đi
nói lại rằng văn hoá Trung Hoa như một nền văn hoá lạnh lẽo, cực đoan, duy
lý, thậm chí dị hợm, tàn nhẫn, xa lạ với nhân tính thông thường.
Trong phạm vi đọc được của mình, tôi cho rằng đây là một khái quát thiên kiến,
tuỳ tiện, nó chống lại ngay chính các dẫn liệu của ông, chứ đừng nói là xa lạ
với nhận thức chung của khoa nghiên cứu về Trung Hoa trên thế giới hiện nay.
Để
thái độ cần có sang một bên, hãy chỉ nói về nhận thức, -- với tôi, đặt trên cái
nền rộng lớn của văn hóa nhân loại nói chung, văn hoá Trung Hoa là một trong
những bộ phận có sự phát triển đầy đặn, rực rỡ bậc nhất.
Đây
là một trong những trường hợp điển hình mà từ đó người ta có thể hình dung ra
thế nào là văn hoá với nghĩa cao đẹp nhất của khái niệm.
Đây
cũng là một trong những nền văn hoá đã hiện thực hoá được hầu hết những tiềm
năng của con người, do đó đạt tới tính phổ biến mà mọi con người có thể tới
soi mình và tìm thấy bản thân trong đó ( về các kết luận này, nếu cần, tôi xin
được phép chứng minh trong một bài khác ).
Các nhà tâm lý học
đưa ra một dẫn chứng khi nhìn người ngoại quốc đi lại ngoài đường, thoạt đầu
trẻ con ( nước nào cũng vậy ) chỉ thấy họ khác mình sau mới thấy họ giống mình.
Nhận thức về Trung Hoa
không phải là ngoại lệ.
Lược lại quá trình nhận thức của thế giới về Trung Hoa là chuyện quá lớn. Nhưng
theo chỗ tôi biết, lối nhấn mạnh những chỗ khác người của văn hoá Trung
Hoa, xem nó như cực đoan, lập dị là một nhận thức cũ của châu Âu các thế
kỷ đã xa; còn nhìn chung, ngày nay, người ta có xu hướng khác.
Một nhà văn nổi tiếng như
Pearl Buck sở dĩ được Nobel vì cho người ta thấy rằng thực ra Trung Hoa chẳng
khác gì thế giới, là một biến thể (variant ) của văn hoá thế giới, mà
châu Âu là một biến thể khác, thế thôi.
Vả chăng bản thân sự kỳ dị hiện nay không còn có nghĩa xấu. Nhìn kỹ thì cái gì cũng trở thành kỳ dị. Bởi nói như các nhà vật lý, nay là lúc cái kỳ dị trở thành cái phổ biến.
Vả chăng bản thân sự kỳ dị hiện nay không còn có nghĩa xấu. Nhìn kỹ thì cái gì cũng trở thành kỳ dị. Bởi nói như các nhà vật lý, nay là lúc cái kỳ dị trở thành cái phổ biến.
Vậy thì nói một nền văn hoá
kỳ dị, cực đoan, là chưa nói gì cả.
Kể ra đi vào cụ thể, còn nhiều điều có thể bàn thêm. Ví dụ Phan Ngọc bảo rằng nước Trung Hoa thống nhất bởi chữ viết chứ không phải vì văn hoá và kinh tế. Tôi muốn hỏi lại, thế ra chữ viết không phải là bộ phận của văn hoá hay sao? Mà cả kinh tế, sự phát đạt của kinh tế một nước và cả tư duy con người khi làm kinh tế nữa, chẳng phải cũng là bằng chứng cho thấy sự phát triển văn hoá của nước đó đấy sao ?
Về kiểu lập luận của Phan Ngọc
Trong khuôn khổ bằng bằng nhợt nhạt của đời sống học thuật Hà Nội hai chục năm nay, nhà nghiên cứu Phan Ngọc nổi lên như một hiện tượng chói sáng hiếm hoi: riêng việc ông cùng lúc thành thạo cả tiếng Pháp tiếng Anh lẫn tiếng Hán đã là một thứ bảo đảm bằng vàng.
Kể ra đi vào cụ thể, còn nhiều điều có thể bàn thêm. Ví dụ Phan Ngọc bảo rằng nước Trung Hoa thống nhất bởi chữ viết chứ không phải vì văn hoá và kinh tế. Tôi muốn hỏi lại, thế ra chữ viết không phải là bộ phận của văn hoá hay sao? Mà cả kinh tế, sự phát đạt của kinh tế một nước và cả tư duy con người khi làm kinh tế nữa, chẳng phải cũng là bằng chứng cho thấy sự phát triển văn hoá của nước đó đấy sao ?
Về kiểu lập luận của Phan Ngọc
Trong khuôn khổ bằng bằng nhợt nhạt của đời sống học thuật Hà Nội hai chục năm nay, nhà nghiên cứu Phan Ngọc nổi lên như một hiện tượng chói sáng hiếm hoi: riêng việc ông cùng lúc thành thạo cả tiếng Pháp tiếng Anh lẫn tiếng Hán đã là một thứ bảo đảm bằng vàng.
Những kiến thức mà ông
trình bày trong các bài viết bắt nguồn từ sức đọc ghê gớm của ông, bởi vậy
trong hoàn cảnh không có các ngoại ngữ phương tây và ít đọc như đám chúng sinh
bọn tôi, quả thật nghe đã thấy sợ.
Tuy nhiên nghĩ kỹ thì thấy
ở bất cứ ai, sự phong phú của kiến thức chỉ mới là những điều kiện để có kết
luận chính xác chứ không nhất thiết bảo đảm rằng những điều người ta nói ra là
chân lý.
Tức một người có thể đọc
được rất nhiều, song nếu đi theo những định hướng lầm lẫn thì vẫn chỉ dẫn tới
những kết luận sai lạc.
Ngoài sách vở, Phan Ngọc còn rất mạnh ở những kinh nghiệm riêng. Đó là một thứ vũ khí lợi hại mà đám đông chúng tôi hiện nay, những cây bút èo uột “chân không tới đất cật không đến trời “, vừa quan liêu hời hợt vừa kinh viện nửa mùa, có nằm mơ cũng không có nổi.
Ngoài sách vở, Phan Ngọc còn rất mạnh ở những kinh nghiệm riêng. Đó là một thứ vũ khí lợi hại mà đám đông chúng tôi hiện nay, những cây bút èo uột “chân không tới đất cật không đến trời “, vừa quan liêu hời hợt vừa kinh viện nửa mùa, có nằm mơ cũng không có nổi.
Ông lại tỏ ra hết sức Việt
Nam ở chỗ có ý viết thế nào để gợi cho người ta cảm tưởng hoàn toàn tự do trong
phát biểu của mình.
Tạm cho là thế đi, nhưng
không phải cái gì được viết bằng kinh nghiệm riêng và bằng sự chân thành của
tác giả, thì tất yếu là không ai có quyền cãi lại.
Thậm chí có những khi người
viết xuất phát từ động cơ rất chân thành mà kết luận đưa ra vẫn giả tạo như
thường.
Nói như Juan Carlos Onetti,
một nhà văn Mỹ la tinh hiện đại,“có nhiều cách nói dối, nhưng cách tởm lợm
nhất là cách làm ra vẻ chỉ nói sự thật, thậm chí dám tuyên bố là nói toàn bộ sự
thật về sự vật, song lại che giấu cái hồn cốt sâu xa của nó”.
Tôi không rõ trong các nhận
xét của mình về Trung Hoa, đâu là chỗ Phan Ngọc cố tình che giấu, đâu là chỗ
ông chỉ biết đến thế, chỉ có điều cảm thấy sự thật không phải như ông đã viết.
Lâu nay, lối viết kết hợp
cả kiến thức lẫn kinh nghiệm theo một cách đầy ma thuật ( mượn lại chữ
của Phan Ngọc ) hoặc mang yếu tố yêu pháp ( chữ của một bạn đọc khác ) ở
tác giả Bản sắc văn hoá Việt Nam đã trở thành một thứ bản năng tự nhiên.
Với nó, ông tha hồ tung
hoành, có cảm tưởng là khi viết được như vậy ông đã rất sướng mà người đọc cũng
rất sướng, chỉ đến lúc tỉnh táo trở lại mới thấy cứ miên man theo lối viết có
phần ma mị ấy thì chết !
Nói thế bởi, theo sự quan
sát của tôi, lối viết ấy đang gây tác hại ngay với chủ nhân: nó khuyến khích
ông thêm tự tin trong sự tuỳ tiện và áp đặt.
Các nhà nho người
Việt từ giữa thế kỷ XIX từng truyền tụng câu “ Văn như Siêu quát vô Tiền Hán
-- Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường “. Trong bài Khái luận về văn
chương chữ Hán ở nước ta đăng trong Tao đàn 1939, Phan Khôi đã mang
câu đó ra phân tích.
Đến lượt Phan Ngọc trong
chương III cuốn sách của mình, ông cũng nhắc tới, nhưng bảo đó “ là của một
người Trung quốc nói, người Việt Nam không dám nói liều như thế “( tr 127,
bản của NXB Văn hoá Thông tin ).
Lối viết bình thản
như là nhân tiện mà đưa ra mà nhắc lại, song với người đọc, nó hiệu qủa lắm, nó
truyền cho người ta niềm tin rằng sự xác định của người viết ( ông Phan Ngọc )
là một sự thật hiển nhiên, không cần chứng minh, hoặc nêu xuất xứ.
Sự thực là ngược lại.
Giả sử có một người
Tầu cụ thể nào đó nói thế ( nói giả sử cho hết lẽ, thật ra dù là chỉ một
người thôi, tôi vẫn không tin ), thì chắc chắn đó vẫn không phải là lối
nghĩ chung của nhiều người Tầu.
Mà nó mang nhãn hiệu
Việt Nam 100%.
Một cách nhìn nhận về văn hoá
Trung Hoa cần phải thay đổi
Người ta thường nói chính những hàng xóm với nhau lại không hiểu nhau. Nhận thức của nhiều người chúng ta về Trung Hoa đang trong tình trạng như vậy.
Một cách nhìn nhận về văn hoá
Trung Hoa cần phải thay đổi
Người ta thường nói chính những hàng xóm với nhau lại không hiểu nhau. Nhận thức của nhiều người chúng ta về Trung Hoa đang trong tình trạng như vậy.
Trong những thiên kiến tuỳ
tiện trên đây, ông Phan Ngọc không cô đơn. Nhiều người đang nghĩ như ông.
Xin dẫn ra một bài
thơ được in trong tuyển thơ Việt nam 1975-2000 :
NGUYỄN DU
Đến đâu con cũng gặp Người
Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa
Hạc vàng một bóng lầu xa
Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo
Tiệc to thường ở nơi nghèo
Đồng ngô khô xác mái lều gió lay
Người xưa đi xứ qua đây
Bùn lưng bụng ngựa sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây thành luỹ khác rồi
Hoàng Hà đã cạn thơ Người vẫn sâu
Thời nào thì cũng như nhau
Nỗi buồn ly biệt, nỗi đau dối lừa
Tiền Đường sầm sập đêm mưa
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều
Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu
Lâm Truy bến cũ cầu treo rực đèn
Sắc tài chi để trời ghen
Người đâu phải nước đánh phèn cho trong
Cõi đời đâu cũng long đong
Văn chương bạc phận má hồng vô duyên
Bời bời những cuộc đỏ đen
Chính trường sấp mặt đồng tiền xoay ngang
Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn
Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi
Bâng khuâng con lại thấy Người
Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa …
( các câu gạch dưới là do VTN nhấn mạnh )
NGUYỄN DU
Đến đâu con cũng gặp Người
Xin dâng chén rượu giữa trời Trung Hoa
Hạc vàng một bóng lầu xa
Hồ Nam úa ráng chiều tà hanh heo
Tiệc to thường ở nơi nghèo
Đồng ngô khô xác mái lều gió lay
Người xưa đi xứ qua đây
Bùn lưng bụng ngựa sông đầy thuyền trôi
Cỏ cây thành luỹ khác rồi
Hoàng Hà đã cạn thơ Người vẫn sâu
Thời nào thì cũng như nhau
Nỗi buồn ly biệt, nỗi đau dối lừa
Tiền Đường sầm sập đêm mưa
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều
Nghiệp Thành còn tiếng quạ kêu
Lâm Truy bến cũ cầu treo rực đèn
Sắc tài chi để trời ghen
Người đâu phải nước đánh phèn cho trong
Cõi đời đâu cũng long đong
Văn chương bạc phận má hồng vô duyên
Bời bời những cuộc đỏ đen
Chính trường sấp mặt đồng tiền xoay ngang
Đặt chân lên đỉnh Thiên Đàn
Bốn bề mây trắng thu vàng lá rơi
Bâng khuâng con lại thấy Người
Vái Người, con đứng ngang trời Trung Hoa …
( các câu gạch dưới là do VTN nhấn mạnh )
Tôi thường đọc lại những
bài thơ loại này, để tự răn mình rằng cho đến ngày hôm nay cách nghĩ dân gian
Trạng Quỳnh Trạng Lợn vẫn đang được duy trì và tái sinh nguyên vẹn trong nhiều
người chúng ta.
Đọc riêng một câu Đặt
chân lên đỉnh Thiên Đàn ( có kèm theo lời chú “Nơi các hoàng đế Trung Hoa
tế trời “) đã thấy kinh sợ.
Sao chúng ta có thể
cho phép mình kiêu căng hợm hĩnh như vậy nhỉ ?
Mà không chỉ đối với
Thiên Đàn, với Trung Hoa nói chung cũng vậy --- xin nhắc lại đây tôi
không bàn về đối sách nên có giữa các quốc gia, mà chỉ bàn về nhận thức
: Lẽ nào trước những vấn đề có ý nghĩa lớn như thế, ta có quyền nói quấy
nói quá thế nào cũng được ?
Một lối so sánh không đàng hoàng
Một lối so sánh không đàng hoàng
Tuy bỏ ra rất nhiều giấy mực để viết về văn hoá Trung Hoa, song cái đích của Phan Ngọc trong bài viết trên là để nóí về văn hoá Việt Nam. Họ cực đoan tức là ta chừng mực, họ dị hình dị dạng tức là ta duyên dáng đáng yêu, họ quyết liệt sát phạt nhau tức là ta bao dung nhân ái.
Dù biết rằng đây là một cách đang được nhiều người sử dụng, cách đây nhiều thế kỷ các nhà nho xưa ở ta đã có sử dụng, tôi vẫn muốn nói đó là một cách làm không nghiêm chỉnh không đàng hoàng và trước tiên không đúng.
Có thật như Phan Ngọc khái quát, văn hoá Việt Nam “theo phương châm làm nhỏ nhưng chu đáo cẩn thận“ hoặc “đi vào cái nên thơ bình dị, nhưng tha thiết với cuộc sống con người“ ?
Để trả lời câu hỏi này, học theo Phan Ngọc, tôi muốn bắt đầu từ một việc cụ thể.
Tết Ất Dậu vừa qua, như báo chí
đã viết, Hà Nội mạnh về quất hơn về đào.
Có mấy điều đáng nói liên quan
tới những cây quất này.
Một là mặc dầu nhà cửa của
phần đông dân Hà Nội còn rất chật chội nhưng dân ta rất thích những cây quất to
lù lù giữa nhà. Theo tôi, cái việc nhỏ này nằm trong một nét tâm lý phổ biến
thời gian gần đây: Cái gì cũng muốn quá hơn mình có. Nói chữ tức là hiếu
đại.
Hai là, nhiều cây
trông chín đẹp như vậy nhưng mua về một hai hôm là hỏng, quất rụng hết .Dân
trồng quất đã quét cho nó một lớp nước muối hoặc một dung dịch hoá chất nào đó
để kịp bán trong mấy ngày tết.
Ba là, trước những cái giả
dối ấy, chúng ta thường xuê xoa cho nhau. Rồi lại tự khen rằng biết bỏ qua
như thế mới là thương người ( với tình thương ấy, rút cục người tốt người
xấu cùng có quyền tồn tại và hoà cả làng ! ).
Tôi thường nhớ lại chuyện này để nghĩ về văn hóa Việt Nam. Kể lại ở đây để tự lưu ý mình rằng không thể nói một cách “ráo hoảnh” ( cho phép tôi được dùng một chữ của dân gian ) như Phan Ngọc được.
Tôi thường nhớ lại chuyện này để nghĩ về văn hóa Việt Nam. Kể lại ở đây để tự lưu ý mình rằng không thể nói một cách “ráo hoảnh” ( cho phép tôi được dùng một chữ của dân gian ) như Phan Ngọc được.
Dù là trong nhà với
nhau cũng nên dè dặt, nếu không ta sẽ rơi vào tự dối mình lúc nào không biết.
Mỗi khi động chạm tới những
vấn đề lớn lao có liên quan đến quốc gia dân tộc, tôi hay nhớ lại câu nói của
Montesquieu do Ehrenburg dẫn lại khi bàn về việc nên nói về nước Nga ra sao.
Câu của Montesquieu như sau : “
Càng những gì liên quan đến Tổ quốc càng đòi hỏi chân thực. Mỗi công dân cần
phải sẵn sàng hy sinh cả tính mạng cho Tổ quốc mình. Nhưng không ai được nhân
danh Tổ quốc bắt họ dối trá “.
Liệu có thể nói là ta “ rất biết cách
quan hệ với văn hoá nước ngoài “ ?
Liệu có thể nói là ta “ rất biết cách
quan hệ với văn hoá nước ngoài “ ?
Trong khi đi tìm bản sắc,
một vấn đề nữa cũng đang nổi lên, là sự hiểu biết của Việt Nam ta về thế giới
và cái cách ta tiếp nhận văn hoá nước ngoài. Chỉ có điều lạ là mặc dầu trong
suy nghĩ, nay là lúc nhiều người bắt đầu cảm thấy rằng hình như ở đây dân mình
có nhiều chỗ dở, song khi kết luận thường vẫn dừng lại ở những khái quát dễ
dãi.
Tôi nhớ trên báo Người
Hà Nội số ra 6-4-02, nhà văn Nguyên Ngọc trong một bài trả lời phỏng vấn đã
khái quát rằng quy luật của văn hoá là gìn giữ và tiếp nhận. Và ông quả quyết
một cách hết sức đúng đắn rằng khi ta biết mở cửa biết tiếp nhận cái hay của
văn hoá bên ngoài thì ta giữ được bản sắc, khi ta đóng cửa khép kín thì mất bản
sắc.
Thế nhưng tiếp đó ông lại
bảo “ Dân tộc ta hiểu rất rõ quy luật này,và đã vận dụng hết sức sáng tạo “.
Cuối cùng, ông chốt lại
bằng nhận định “ Kiểu cách văn hoá Việt nam là gì ? Đó chính là khả năng tiếp
nhận và tiêu hoá được tất cả những tinh hoa của nền văn hoá đến từ nơi khác,
chắt lọc và hoà nhập vào cái của mình “.
Đọc Nguyên Ngọc đến đây (
không biết đến đầu 2005 này, ông còn nghĩ thế không ), tôi lại thấy có lẽ không
phải. Tôi tự đặt cho mình mấy câu hỏi:
1/ Có chắc là đứng
trước tinh hoa của người, ta hiểu rất rõ, hay thường chỉ cảm thấy một cách lờ
mờ và có thể nói là kèm theo rất nhiều ngộ nhận?
2/ Có chắc là vận
dụng sáng tạo hay còn nhiều phen chắp vá cứng nhắc, nhất là ăn bớt động tác để
thực hiện không đến nơi đến chốn ?
3/ Nên nói là ta đã
tiếp thụ được các tinh hoa, hay cần chỉ rõ là ngay trong việc học hỏi cũng đang
có rất nhiều vụng dại, cái hay không học lại học rất nhanh cái kém cái dở sẵn
có của họ ?
Chỉ cần nhìn ra thực tế chung quanh và không tự dối lòng thì bất cứ ai cũng sẽ tìm ra câu trả lời đích thực !
Có thể nhận định của Nguyên Ngọc cũng như lối khái quát của Phan Ngọc đều xuất phát từ dụng ý tốt.
Chỉ cần nhìn ra thực tế chung quanh và không tự dối lòng thì bất cứ ai cũng sẽ tìm ra câu trả lời đích thực !
Có thể nhận định của Nguyên Ngọc cũng như lối khái quát của Phan Ngọc đều xuất phát từ dụng ý tốt.
Nhưng nên nói rõ với
nhau: đó là điều chúng ta muốn hơn là điều đã xảy ra trong thực tế.
Chừng nào còn dễ dãi và “vơ vào“ khi nói về mình như thế này thì những thiên kiến và tuỳ tiện khi nói về người hẳn còn có đất tồn tại./.
Chừng nào còn dễ dãi và “vơ vào“ khi nói về mình như thế này thì những thiên kiến và tuỳ tiện khi nói về người hẳn còn có đất tồn tại./.
No comments:
Post a Comment