Hồi chuông tắt lửa và cái nhìn hiện tượng luận
Hồi chuông tắt lửa là một cuốn truyện vừa của nhà văn Thế Nguyên(1)
hoàn thành tháng 8 năm 1963 và được công bố lần đầu ở Sài Gòn năm 1964.
Theo chúng tôi, đây là một trong những tác phẩm văn xuôi đặc sắc ở miền
Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, nhưng chưa được giới nghiên cứu, phê
bình quan tâm thích đáng. Tác giả là một trí thức Công giáo khuynh tả
chịu ảnh hưởng tư tưởng thần học giải phóng và một số quan niệm mỹ học
phương Tây, trong đó có chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng luận, vốn được giới thiệu ở miền Nam vào những năm 60 thế kỷ trước như một lý thuyết mỹ học và một kỹ thuật miêu tả trong sáng tạo văn học.
Bài viết này bước đầu soi chiếu vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm Hồi chuông tắt lửa từ
quan điểm hiện tượng luận của Husserl và Merleau-Ponty để phân tích cái
nhìn và kỹ thuật miêu tả của nhà văn về vấn đề số phận con người với
kinh nghiệm ở đời giữa những biến thiên của lịch sử dân tộc và tôn giáo.
Vận dụng hiện tượng luận, trong trường hợp này, chúng tôi cũng muốn đào
sâu ý nghĩa tiềm ẩn của tác phẩm từ sự phân tích của người đọc, theo
tinh thần tác phẩm là đối tượng thẩm mỹ cho một ý thức tiếp nhận.
MỘT THẾ GIỚI ĐƯỢC TẠO DỰNG
Câu chuyện của Hồi chuông tắt lửa khởi đầu bằng việc nhân vật người kể chuyện
xưng “tôi” nhận lời mời của một vị linh mục tham gia giảng dạy cho một
trường trung học mới mở trong một xứ đạo ở một vùng quê kháng chiến thời
chống Pháp. Từ đây bắt đầu những kinh nghiệm tại thế với những quan hệ
chính trị, tôn giáo, tình yêu và tình dục mà nhân vật đó trải qua trong
tương giao với những con người ở xứ đạo.
Chính trong những ngày ấy, nhân vật xưng “tôi” đã lần lượt rơi vào
những tình huống tưởng chừng như mê cung không lối thoát. Ở đó, anh ta
đã trải qua hai cuộc tình thoáng qua với một cô gái quê và một cô giáo
đồng nghiệp cùng trường. Cô giáo này là bạn thân của người em gái vị
linh mục, cả hai đều từng ở trong một dòng tu và chứng kiến cái chết bí
ẩn của một người nữ tu khác. Người em gái này về sau mang thai với M.,
một tu sĩ rời bỏ chủng viện để hoạt động chính trị bí mật, và đã từ trần
vì sinh non.
Cuộc sống ở xứ đạo với nhà thờ và ngôi trường được sắp xếp ổn định
dưới bàn tay của cha T. Các tu sĩ và tín đồ ngoan đạo làm tròn bổn phận
của mình. Thầy giáo, cô giáo chu toàn nhiệm vụ dạy học. Học trò, trong
đó có đứa con đỡ đầu của cha T. là thằng Ánh, học hành tiến bộ, cả về
kiến thức lẫn đạo đức, vì “việc học là cần thiết, nhưng giáo dục không
phải chỉ nguyên rèn luyện đầu óc cho thông thái”(2).
Có thể nói, trong ý định chủ quan của mình, cha T. có ý hướng tạo
dựng một xứ đạo lành thánh, ở đó những thế hệ tín đồ kế thừa và tiếp nối
truyền thống trong một cuộc sống hoà hợp. Điều mâu thuẫn là để đạt được
mục đích ấy, cha T. đã phải che giấu những điều khuất tất, xoá vết
những tội lỗi để khoả lấp những nghi ngờ của các giáo dân.
Thế giới tưởng chừng phẳng lặng đó ẩn chứa những cơn sóng ngầm chỉ
chờ cơ hội là bùng nổ. Mối tình tay ba của những người đồng nghiệp dẫn
đến xung đột giữa nhân vật “tôi” và K., ngay lúc anh này vừa đính hôn
với cô giáo. Bầu không khí trở nên căng thẳng hơn nữa khi K. nghi ngờ
rằng Ánh là kết quả mối quan hệ bí mật giữa cô giáo và cha T.
Đỉnh điểm của xung đột là khi có sự xuất hiện của M., người từng gây
ra những vụ mưu sát tàn bạo trước đôi mắt kinh hoàng của các nạn nhân.
M. gặp cha T. trong toan tính nhờ sự giúp đỡ của ông để trốn thoát khỏi
vùng đất do những người kháng chiến kiểm soát. Theo kế hoạch được sắp
xếp, ông Bô Khương, một tín đồ mất trí, bị đưa ra xét xử chỉ vì tội ăn
cắp vặt, nhằm thu hút sự chú ý của mọi người tại phiên toà, để M. dễ bề
tẩu thoát.
Nhưng M. không chịu ra đi một mình. Ông ta tìm cách tra vấn bí mật mà
chỉ cha T. và cô giáo nắm rõ, để biết sự thật rằng thằng Ánh là đứa con
của ông với cô giáo. M. cướp thằng Ánh trong tay cô giáo để xuống một
con đò đang đợi sẵn ở bến sông. Bị người du kích phát hiện, M. chứng
kiến viên đạn kết liễu cuộc đời của Ánh thay cho chính ông ta.
Toàn bộ câu chuyện được gói trọn chỉ trong 100 trang sách ngắn, in
chữ cỡ lớn, từ từ mở ra một thế giới khép kín trong lòng một đất nước
tao loạn. Đó là thế giới được tái hiện với những bí ẩn của nó, đồng thời
cũng là một thế giới được tạo dựng dưới kỹ thuật miêu tả của nhà văn.
Theo hiện tượng luận, thế giới đã hình thành và ý thức của con người
về thế giới cũng hình thành cùng một lúc với kinh nghiệm của ta, trong
hiện hữu tại thế của ta(3). Merleau-Ponty viết: “Thế giới gắn
liền với chủ thể mà chủ thể không gì khác hơn là dự phóng của thế giới,
và chủ thể cũng không tách rời với thế giới mà đây là thế giới do chính
chủ thể dự phóng nên. Chủ thể là hữu thể tại thế còn thế giới luôn mang
tính chủ thể”(4). Thế giới Hồi chuông tắt lửa đã
được tạo dựng cùng lúc với ý thức của nhân vật xưng “tôi” hình thành
trong kinh nghiệm mà anh ta thu thập được và tìm cách bày tỏ kinh nghiệm
đó với tha nhân.
Cũng theo nhãn quan hiện tượng luận, sự phân tích và giải thích không quan trọng bằng sự miêu tả. Trong Hồi chuông tắt lửa, Thế
Nguyên không sa vào phân tích tâm lý như tiểu thuyết có cốt truyện tình
cảm, cũng không lý giải và định hướng cho người đọc như tiểu thuyết có
cốt truyện giáo dục. Ông miêu tả hiện tượng như người ta bóc những lớp
vỏ của một củ hành để từng bước chạm vào cái hạt nhân bí ẩn bị che giấu.
Nhưng nhà tiểu thuyết cũng không có tham vọng của một nhà văn hiện thực chủ nghĩa, tin rằng cái tôi nghệ sĩ có khả năng khám phá bản chất và quy luật của đời sống như nó vốn có.
Hồi chuông tắt lửa thuộc khuynh hướng tiểu thuyết
đề cao cái sống thực. Trong tác phẩm, yếu tính của sự vật không phải là
cái gì tự nó mà chỉ bộc lộ ra trong quan hệ hỗ tương với ý thức. Ở đây
có một nghịch lý thú vị này: một mặt, Hồi chuông tắt lửa không
nhằm tái hiện một thực tại có sẵn mà là triển khai việc khám phá một sự
thực; mặt khác cuốn tiểu thuyết giả định rằng cả tác giả lẫn người đọc,
nói theo ngôn ngữ của Husserl, chỉ đạt tới và nắm bắt những hiện tượng
trong thế giới của kinh nghiệm sống, chứ không thể nào vươn tới bản chất của nó. Thoạt nhìn, dường như đó là một bước lùi so với chủ nghĩa hiện thực, nhất là tác phẩm hiện thực qua tiêu điểm zéro, trong đó người trần thuật
có điểm nhìn bên trên như điểm nhìn của Thượng đế đối với các nhân vật
của mình, nhờ đó mà hiểu biết thông suốt tất cả mọi sự, khiến nhân vật
không thể che giấu được điều gì, ngay cả những động cơ thầm kín của nó.
Thật không dễ chấp nhận với một số người khi nhận xét rằng một “chủ
nghĩa hiện thực” nào đó có thể là biến tướng của thế giới quan duy tâm,
khi mà thực tại được tái hiện chẳng khác nào một mô hình được cấu tạo
theo chính tâm trí của con người. Càng không dễ chấp nhận khi nhận xét
rằng hiện thực khả tín nhất không phải là “hiện thực mãn nguyện” mà là
hiện thực chứa đựng những yếu tố hoài nghi. Về một khía cạnh nào đó,
hiện tượng luận tỏ ra tôn trọng “hiện thực”, vì nó xoá bỏ định kiến cho
rằng cái tôi là trung tâm của chân lý nội tại thay vì chỉ là một chủ thể
gắn liền với thế giới.
Vậy thế giới đã được tạo dựng trong Hồi chuông tắt lửa như thế nào?
Đó là thế giới của những bí ẩn chồng lên bí ẩn. Bí ẩn trong gia đình
của cha T., nơi có một người con gái mang hoang thai đã chôn vùi tuổi
thanh xuân của mình trong tình yêu mù quáng. Bí ẩn trong cuộc đời chị
Agnès, người nữ tu hoá điên khi đối mặt với cái bóng đen ngoài vườn tu
viện. Bí ẩn trong mối quan hệ tay ba của cô giáo, nhân vật “tôi” và K.
Bí ẩn trong lai lịch và hành tung của M., đảng viên Quốc dân đảng đang
bị chính quyền kháng chiến truy lùng. Bí ẩn trong nguồn gốc và tính cách
của thằng Ánh. Bí ẩn trong hành động và động cơ của cha T. Bí ẩn trong
cuộc đời và số phận của Bô Khương. Bí ẩn về con vạc mồi của bõ Khản…
Nhưng bí ẩn không phải là bí ẩn tự nó. Bí ẩn bao giờ cũng nằm trong
tương quan với một cá thể. Bí ẩn với người này có thể là điều dễ hiểu
đối với người kia. Đồng thời, bí ẩn luôn có thể gây ra hoài nghi và ngộ
nhận. Cốt truyện của Hồi chuông tắt lửa là cốt truyện của những
hoài nghi và ngộ nhận được xâu chuỗi. Tác giả, thông qua điểm nhìn của
người kể chuyện, lần lượt vén màn những bí ẩn đó và giải toả những ngộ
nhận. Nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”, với sự “giúp đỡ” của nhân vật
K., đã dần dần chiếu những tia sáng mong manh vào thế giới mờ đục của
câu chuyện Hồi chuông tắt lửa.
Hiện tượng luận quan niệm thế giới cũng như sinh hoạt tại thế của ta
có tính chất mờ đục, không thể thấu hiểu. Thế giới mờ đục trước hết là
vì thế giới bị che giấu: cả chị Agnès, cả người em gái của cha T. và cô
giáo đều che giấu mối tình bi đát của mình trong câm lặng. Cha T. che
giấu tấn thảm kịch của những người phụ nữ, đồng thời che giấu kẻ gây ra
nguồn cơn của tấn thảm kịch đó, để tự mình nhận lấy sự kết án của K.
Thế giới là mờ đục, theo hiện tượng luận, còn vì con người chỉ có thể
nhìn thấy một mặt nào đó của nó. Nói khác đi, thế giới không phải là
một toàn thể mà là một trắc diện qua cái nhìn của mỗi người, trong từng
tình huống cụ thể. Cho nên mờ đục gắn liền với đặc tính của thế giới.
Nhưng bằng lối miêu tả hiện tượng luận cộng với thủ pháp do thám của
tiểu thuyết điều tra hình sự, Thế Nguyên đã từng bước phơi bầy sự thật
về thế giới và con người sau những tấm mặt nạ. Có thể nói Hồi chuông tắt lửa biểu hiện sự giằng co giữa quan niệm tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện thực và nhãn quan hiện tượng luận nơi Thế Nguyên.
Trong nhãn quan hiện tượng luận, tiểu thuyết là một phương thức “trở
về với chính thế giới”, như lời kêu gọi của Husserl, và do đó tự đặt cho
nó nhiệm vụ miêu tả sự vật và hiện tượng đã xuất hiện trong kinh nghiệm
sống thực của chủ thể như thế nào. Muốn vậy, chủ thể phải xoá bỏ những
thiên kiến, gạt bỏ những ảo tưởng. Thuật ngữ Reduktion của Husserl trong tiếng Đức, Réduction trong tiếng Pháp được Trần Thái Đỉnh dịch là “Giảm trừ”(5), Lê Tôn Nghiêm dịch là “Giản lược”(6), còn Phạm Công Thiện thì dịch là “Quy hồi”(7).
Đằng sau sự khác biệt này, có thể tìm thấy một điểm kết nối: muốn “quy
hồi” để thế-giới-tự-nó trở thành thế-giới-cho-ta, thì phải giảm trừ hay
giản lược những định kiến về thế giới, “cho nó vào trong ngoặc đơn”.
Lịch sử văn học đã ghi nhận những hình mẫu có tính lý tưởng về “người tình nhân chung thuỷ”, “người cách mạng
hy sinh”, “người tu sĩ đạo đức”; đồng thời cũng ghi nhận những nỗ lực
“phá chấp” để có được cái nhìn trẻ thơ về thế giới khi nó xuất hiện lần
đầu tiên trong kinh nghiệm sống của chủ thể. Trong Hiện tượng luận về tri giác, Merleau-Ponty nhìn nhận: “Không có gì khó bằng biết thực đúng cái ta nhìn”(8).
Đây càng là một nỗ lực khó khăn trong bối cảnh của những đố kỵ và định
kiến. Boccaccio, Rabelais… tầm cỡ như vậy mà đã không yên trong bối cảnh
văn hoá Phục hưng nhiều cởi mở huống hồ Thế-Nguyên-tuổi-hai-mươi trong
xã hội miền Nam đầy thù hận và cố chấp giữa những năm 60 thế kỷ trước…
Hiện tượng luận không chấp nhận kinh nghiệm do tri giác đem lại một
cách đương nhiên mà không tìm hiểu, khám phá, sáng tạo. Kinh nghiệm và
tri giác chính là kinh nghiệm và tri giác của tôi, do tôi và cho tôi. Và
ngay khi tôi có kinh nghiệm về thế giới thì cùng một lúc tôi bừng tỉnh
và phản tỉnh về thế giới. Đó là ý nghĩa của luận đề ý thức là ý thức về
một đối tượng và đối tượng là đối tượng cho một ý thức. Kinh nghiệm về
thế giới thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổi của chính các hiện tượng,
đồng thời với sự thay đổi của ý thức tôi về hiện tượng đó.
Nếu cha T., ông M. và những người kháng chiến có thể giữ một trạng
thái tinh thần không suy suyển trước mọi sự thật vì họ là những người
“cứng lòng tin”, thì những người như cô giáo, anh K. và nhân vật xưng
“tôi” chắc chắn phải ít nhiều phản tỉnh trước tấn thảm kịch. Có điều Thế
Nguyên không nhằm miêu tả sự phản tỉnh và chuyển biến về tâm lý đó, vì
ông không đi theo cung cách miêu tả của tiểu thuyết truyền thống. Mặc dù
không hẳn là chuyện kể hành vi luận, trong đó câu chuyện được kể lại
bởi một người trần thuật biết ít hơn các nhân vật của mình, Hồi chuông tắt lửa đã
giản lược sự phân tích tư tưởng và tình cảm của nhân vật. Tác giả kể
một câu chuyện về đời người và người đời mà không truy tìm và cắt nghĩa
động cơ của họ. Nhà văn miêu tả mà không lý giải khiến cho tác phẩm
dường như treo lửng mọi phán đoán.
Thế nhưng, về phía những người đọc, chúng ta lại có nhu cầu cắt nghĩa
thế giới và phán đoán những con người trong đó với những động cơ của
họ. Hiện tượng luận không chủ trương giải thích thế giới nhưng lại mở
cánh cửa cho những sự giải thích khác nhau về thế giới và gợi mở cho
người đọc lấp đầy những khoảng trống của văn bản bằng sự tiếp nhận của
mình.
Tóm lại, thế giới Hồi chuông tắt lửa là một thế giới tưởng
chừng đạo đức, bình an, lành thánh ở một xứ đạo; đồng thời cũng là một
thế giới che giấu những mưu mô, thủ đoạn, giả dối nên chỉ chờ cơ hội để
bùng nổ. Vì vậy đó là một thế giới mờ đục, không thể thấu hiểu, con
người chỉ có thể nhìn thấy một trắc diện của nó, nên dễ gây ra ngộ nhận.
Tác giả miêu tả những hành vi ở bề mặt của nhân vật mà không đi sâu
phân tích động cơ, tâm lý, cũng không lý giải và định hướng mà để người
đọc tự mình phán xét.
MỘT THẾ GIỚI BỊ SỤP ĐỔ
Âm mưu của ông M., có sự giúp sức, vô tình hay hữu ý, của cha T.,
nhằm cướp đi đứa con với cô giáo – chính là thằng Ánh – trên đường trốn
thoát, đã bất thành khi bị những người kháng chiến phát hiện. Viên đạn
oan nghiệt đã cắm vào ngực thằng bé. Thế Nguyên viết trong đoạn cuối
cuốn tiểu thuyết, khi xác Ánh được đưa từ con đò dưới bến sông về nhà
thờ:
“Khi chúng tôi về tới cửa nhà nguyện, cuộc phụng vụ vừa xong. Cha T.
còn quỳ lại sau hồi chuông tắt lửa. Bóng bõ Khản lênh khênh chụp cái bù
đài lên từng ngọn nến. Ánh sáng leo lét nhỏ dần, chặt đôi gương mặt bõ.
Mọi người lục tục rời hàng ghế. Khi thấy chúng tôi, họ dừng cả lại như
bất động. Ngay lúc ấy một làn chớp loé lên. Bóng ông Bô Khương vụt hiện
ra rất nhanh ngoài sân cỏ, mang hình ảnh cứu chuộc thê thảm trên đỉnh
đồi Golgotha, đồng thời với một tiếng sét kinh hoàng. Tôi run rẩy bấu
chặt tay vào bờ tường nhìn xác thằng Ánh xám ngắt loạng choạng trên tay
ông M. Đầu cô giáo gục xuống, gương mặt hoàn toàn nằm trong bóng tối. Dư
âm tiếng sét còn lại vang rền. Tôi nghe chừng cả một khoảng trời cao
vừa sụp đổ…”(9).
Trong tác phẩm này, hồi chuông tắt lửa là hồi chuông cuối ngày thứ
sáu tuần thánh, báo hiệu tất cả đèn nến trong giáo đường tắt dần để
tưởng niệm ngày Chúa chịu nạn. Ngẫu nhiên, hồi chuông tắt lửa cũng trùng
hợp với hồi chuông báo tử, cầu nguyện cho linh hồn bé nhỏ của Ánh.
Một thế giới được tạo dựng, với những sự thật được phát hiện của nó,
đã nhanh chóng sụp đổ. Nhưng đây không phải là lần sụp đổ đầu tiên và
duy nhất. Thế giới trong Hồi chuông tắt lửa đã sụp đổ từng mảng
khi mà những hiện tượng được con người tri giác đã dẫn đến sự vỡ mộng;
còn những tương giao đã biến con người thành những công cụ.
Thuộc vào dạng thứ nhất là trường hợp mối quan hệ của Bô Khương đối
với người cha thiêng liêng: một lần chứng kiến hành vi bất nhẫn của vị
cha cố đỡ đầu, ông đã rời bỏ nhà dòng, rơi vào khủng hoảng và mắc bệnh
tâm thần, trở thành kẻ “ném đá” vào thế gian theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng. Đó cũng là trường hợp ông M. hiện ra vừa như thủ lãnh một nhóm
hoạt động bí mật, vừa như một Don Juan thời hiện đại.
Con người có hành tung bí ẩn nhưng cũng có sức hấp dẫn của một người
đàn ông táo bạo đó là nguồn cơn tấn thảm kịch của cả ba người phụ nữ:
Agnès, em gái cha T. và cô giáo. Ba người phụ nữ này, nói cho cùng, cũng
chỉ là phương tiện của M.
Việc Agnès đem vá chằng chịt những mụn vải nhỏ lên bộ áo dòng khi còn
lành lặn không phải là một trò chơi vô nghĩa. Khi chia sẻ trọn vẹn cái
bí mật của hai người bạn tu, cô giáo đã phát hiện ra bộ mặt thật của một
con người và cũng là của một thế giới:
“Đôi khi tôi đã nghĩ rằng không được làm “thánh” thực đáng buồn.
Nhưng rồi bản thân va chạm với thánh thần, chia sẻ cái gia tài giả dối,
lường đảo, phụ bạc trắng trợn của chính bậc tu hành, tôi mới sáng mắt ra
mà nhận thấy rằng chỉ làm “thánh” thôi, chỉ làm “thánh” dưới mắt kẻ
chung quanh thôi mới thực là đáng nản”(10).
Thuộc vào dạng thứ hai là quan hệ giữa K. và nhân vật xưng “tôi” với
Hạnh, một người con gái quê thật thà, dễ bị lợi dụng. Đứng về phương
diện luân lý, việc cha T. triệu tập đám đông tín hữu trong buổi lễ để
làm bình phong cho M. trốn thoát, vô hình trung cũng xem họ như là công
cụ.
Thật ra, những nhân vật của Hồi chuông tắt lửa không phải
không có ý hướng và nỗ lực đi tìm và xây dựng những mối tương giao nhân
bản. Thoạt đầu, giữa nhân vật xưng “tôi” và cô giáo đã tìm thấy một sự
đồng cảm trong tình cảnh của những người ở dưới vực sâu:
“Người ta có thể xuống tới nhiều chặng thất vọng khác nhau. Riêng
tôi, đứng ở nấc thang chót bắc xuống vực tuyệt vọng, thấy ông quơ tay
tìm tòi dưới đáy vực, ngại gì một víu tay đối với ông. Chúng ta đã tới
đáy: sự thực không có gì lạ ngoài cô đơn và lạnh lẽo!”(11).
Không phải ngẫu nhiên mà người đàn bà này có thể viết cho người tình một đêm của mình lá thư để trút hết uẩn khúc của lòng mình:
“Chia sẻ trọn vẹn sự bí mật đời tôi đối với ông, tôi không cảm thấy
mất mát điều gì. Trái lại nỗi cô đơn của lòng tôi như một vết dầu. Đã từ
lâu, vết dầu đó cứ lần lần thấm sâu vào từng ngõ ngách trong cơ thể
tôi. Đã từ lâu tôi đi trong đêm tối như một người tù ánh sáng. Đã từ lâu
tôi không còn thấy hoả ngục nơi người khác: Tôi đã gặp nó ngay trong
nỗi cô đơn của hồn tôi. Ông cũng vậy, phải không ông?
“Vậy thì, câu chuyện kể trong đêm giữa hai người tù ánh sáng vẫn còn mang nguyên vẹn sự bí mật tuyệt vọng của nó…”(12).
Hai chủ đề “Con người bị kết án phải cô đơn” và “Hoả ngục chính là kẻ khác” trong tác phẩm Jean-Paul Sartre
đã được kết hợp trong một cảnh ngộ, qua một lời tự bạch. Tại sao gọi
đây là “sự bí mật tuyệt vọng”? Phải chăng bởi vì đây là bí mật không thể
hoá giải, và nếu bí mật được hoá giải có nghĩa là một thế giới sẽ sụp
đổ.
Lần đầu tiên hình ảnh về màu lửa cháy báo hiệu cho sự hủy diệt đã xuất hiện ngay từ cuối chương hai của cuốn tiểu thuyết:
“Lúc tôi đọc xong lá thư của cô giáo, mặt trời đã đổ dưới rặng tre và
buổi chiều là cả một đám cháy. Đám cháy ấy đang chuyển màu trước mắt
tôi: từ đỏ thẫm, xám, lẫn màu cứt sắt. Thế rồi cái đám tàn tro kia bay
mịt mù lên không gian, phủ kín bầu trời quang đãng. Đột nhiên trong một
phút, toàn thân tôi chết cứng, tay chân không thể nào co ruỗi được như
thể có một thứ băng giá nào đã làm tê liệt các động mạch”(13).
Cô giáo không phải là người muốn tạo ra đám cháy. Cô vẫn muốn nuôi
giữ bí mật, có thể vì đó là kỷ niệm thiêng liêng của cô, cũng có thể vì
cô không muốn nó cản trở con đường trở về cuộc sống bình thường trong
quan hệ với K. Cô tin vào sự dàn xếp của cha T. sẽ giúp cô thoát khỏi
tình trạng hiểm nghèo hiện tại.
Nhưng cái giá mà cô giáo, cha T. và cả M. phải trả cho những toan
tính của mình thật quá đắt. Chính họ đã đẩy thằng Ánh vào tâm điểm của
xung đột. Ánh vừa là đầu mối kết nối hai cực của một thế giới, vừa là
tiêu điểm tranh chấp của hai cực đó: một cực là mưu mô, thủ đoạn; một
cực là cả tin, ngờ nghệch. Khi điểm kết nối này bị phá hủy, và thế giới
không còn đặt nền tảng trên những tương giao nhân bản mà là nguồn cơn
của “kinh sợ và bàng hoàng”, thì thế giới ấy phải sụp đổ.
Tóm lại, thế giới Hồi chuông tắt lửa đã sụp đổ vì đặt trên
nền tảng của sự giả tạo và giả dối, vì những thiên kiến và ngộ nhận
không thể hoá giải. Thế giới bị sụp đổ còn vì thiếu những tương giao
nhân bản, con người không phải là mục đích cao nhất mà là phương tiện
của nhau. Cuối cùng, thế giới phải sụp đổ vì những mặt nạ lần lượt bị
bóc trần và bi đát thay, vì cái ác, sự sa đọa không bị trừng phạt mà sự
ngây thơ, vô tội bị huỷ diệt thay cho cái ác.
MỘT THẾ GIỚI ĐƯỢC CỨU CHUỘC
Trong một bài viết về Hồi chuông tắt lửa ngay sau khi tác phẩm ra đời và nhận được sự hồi đáp không mấy thuận lợi của độc giả, Nguyễn Văn Trung
rất nhạy cảm khi nói đến chủ đề cứu chuộc của tác phẩm: “Tôi có cảm
tưởng là tác giả muốn thể hiện một ý tưởng thần học về sự “cứu chuộc”
qua hai nhân vật: Bô Khương và đặc biệt là linh mục T.”(14).
Sự hy sinh của Bô Khương được nhìn nhận như “một sự “cứu chuộc” vô ý
thức vì nạn nhân không biết được ý nghĩa việc làm của mình. Bô Khương
gợi lên hình ảnh con chiên trong sạch bị hy sinh để đền tội cho mọi
người trong Cựu ước”(15).
Không phải ngẫu nhiên mà Thế Nguyên đưa vào văn bản thiên truyện đoạn
sách Thánh, qua giọng đọc của thầy già xứ, nói về việc dân chúng Israel
mỗi nhà hiến một con chiên hay một con dê để ăn thịt trong ngày Chúa
vượt qua. Cũng chính tác giả ghi chú thích ở cuối trang thay cho nhà
xuất bản:
“Theo Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân
Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý
nghĩa như một sự Cứu chuộc, một bí tích: mọi tội ác của người ta sẽ đổ
lên đầu con chiên đực trong sạch kia và khi con vật được thiêu huỷ đi,
nó mang luôn theo tất cả những vết tích nhơ bẩn đó”(16).
Ý tứ ở đây gắn liền với sự hy sinh của hình tượng Bô Khương, bị mấy
đứa học trò thủ vai quân Du-dêu lùng bắt ngoài chợ, vậy là đã rõ.
Theo Nguyễn Văn Trung,
trái với sự hy sinh mà không biết mình hy sinh của Bô Khương là thái độ
hy sinh có ý thức và có chủ tâm của cha T. Nhà phê bình viết:
“Thằng Ánh là kết quả của những oan trái, tội lỗi và cái chết vô tội
của nó càng nói lên sự oan trái, tình cảnh tội lỗi của những con người.
Nhưng sự có mặt của nó cũng như những hành động của cô giáo là yếu tố
đưa đến ngộ nhận mà cha T. sẽ phải chịu đựng, một sự chịu đựng có ý thức biết trước, cố ý, vì
muốn đảm nhiệm một thái độ linh mục đích thực giống thái độ của Chúa
Kitô trên thánh giá: gánh lấy những tội lỗi, oan trái của cuộc đời […].
“Chỉ mình cha T. nắm những bí mật của một cuộc đời đó dù biết có thể
bị hiểu nhầm và sẽ phải chịu đựng những đau khổ vì sự hiểu nhầm đó, một
hiểu nhầm đụng tới chính điều làm cho chức linh mục được tôn kính là đức
trinh khiết. Thật cao cả biết bao thái độ của cha T. trước những lời tố
cáo của K. Ngài không oán giận mà còn tha thứ, cầu nguyện cho những
người hiểu nhầm mình. Ngài cũng không phán đoán họ vì phải chăng phán
đoán là kết án và bao giờ cũng là sai lầm khi phê phán đụng tới những lý
do thuộc về lương tâm của một người. Đó cũng là thái độ của Chúa Yêsu
trên thánh giá đối với những kẻ đóng đinh Ngài”(17).
Mặc dù chia sẻ phần nào sự đánh giá của Nguyễn Văn Trung đối với
những thiện ý của nhân vật T., chúng tôi cho rằng xét cho cùng thì cha
T. vẫn không phải là biểu tượng của sự cứu chuộc trong Hồi chuông tắt lửa.
T. không phải là người duy nhất nắm giữ những bí mật của M., cũng không
phải là người biết rõ tất cả mặt trái của M., so với cô giáo. Nhưng
trước một con người mà ông biết là sa đọa, liệu lương tâm ông có yên ổn
khi ông không tỏ ra một biểu hiện nào để ngăn cản tội ác. Dù việc M.
cướp thằng Ánh trên tay cô giáo dẫn đến cái chết thảm khốc của nó là
việc ngoài ý muốn mà T. không lường trước, nhưng ông vẫn phải liên đới
chịu trách nhiệm về tấn thảm kịch ấy.
Tuy vậy, đó chưa phải là lý do chủ yếu để ta đặt dấu hỏi về “đức
trinh khiết” của cha T. Điều chủ yếu khiến ta đặt dấu hỏi về điều đó
chính là thái độ của cha T. trong quan hệ với Bô Khương. Phải chăng Bô
Khương cũng chỉ là một phương tiện trong những toan tính của cha T.?
Việc Bô phải đền tội cho người khác trong ngày thứ sáu tuần thánh phải
chăng cũng là một vở kịch nhằm che đậy một âm mưu chính trị dưới lớp vỏ
tôn giáo? Và như vậy, phải chăng chủ đề “cứu chuộc” đã bị nhìn nhận trái
với tinh thần nhân bản?
Chính vì vậy mà theo chúng tôi, biểu tượng của sự cứu chuộc trong Hồi chuông tắt lửa không
phải là Bô Khương, càng không phải là cha T. Biểu tượng đó chính là
Ánh, dù thằng bé chưa ý thức đầy đủ về số phận của mình, càng không thể
tự cắt nghĩa về cái sống và cái chết của mình. Ánh chính là biểu tượng
của “đức trinh khiết” mà tất cả người lớn có thể soi vào. Ánh đã làm vật
hiến tế cho những toan tính của người lớn. Nó phải trả món nợ tinh thần
cho những kẻ đã tạo ra hình hài và linh hồn nó bằng chính mạng sống của
nó. Cái chết của Ánh vừa như một phi lý của hiện sinh, vừa có ý nghĩa
như một cứu rỗi cho những tội ác, sa đọa của người lớn.
Một chi tiết có sức ám ảnh là hình ảnh con búp bê bằng len thắt nơ đỏ
mà Agnès để lại đã làm chứng cho tấn bi kịch của người bạn gái cô giáo
và rồi của chính cô. Có thể xem Ánh là hoá thân của con búp bê mà ba
người phụ nữ cả tin này muốn sở hữu cho riêng mình. Đứa bé có tật hay
ngủ gục và học hành chểnh mảng đó thật ra là một “thiên sứ” mà Thượng đế
gửi xuống để cứu chuộc cho những kiếp người tội lỗi.
Có thể nói Hồi chuông tắt lửa là một tác phẩm pha trộn chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và kỹ thuật miêu tả hiện tượng luận. Sự pha trộn đó thể
hiện sự giằng co trong tâm thức của bản thân tác giả. Trên hành trình
tư tưởng và trong sáng tác nghệ thuật, Thế Nguyên đã tìm đến hiện tượng
luận như một sự hoà giải giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện
sinh, rồi từ hiện tượng luận về hiện sinh đi tới một hiện tượng luận về
xã hội, nhưng thời cuộc không cho phép ông đi đến cùng chọn lựa nghệ
thuật của mình. Càng về sau, nhà văn càng mạnh mẽ phê phán những biểu
hiện của điều mà ông gọi là “tính chất sì-nốp-bít” (thói học đòi làm sang) của xã hội miền Nam(18).
Ông bài bác thứ “văn chương hiện sinh” theo đuôi, làm dáng, đồng thời
đề cao văn chương hiện sinh dấn thân, trong đó con người phản tỉnh về
thân phận của mình, thông qua những kinh nghiệm sống trong một hoàn cảnh
cực đoan của đất nước. Hoạt động thực tiễn tạo điều kiện cho Thế Nguyên
tìm thấy ở phong trào dân tộc một điểm kết nối giữa tinh thần xã hội và
đức tin Kitô giáo.
Nhưng rồi chính Hồi chuông tắt lửa và tác giả của nó cũng
không tìm được sự dung hợp và chỗ đứng trong lịch sử. Nhà văn đã chịu
chung thân phận với nhân vật của mình, thân phận con người ở “giữa hai làn đạn”1
_________________
(1) Thế Nguyên tên thật là Trần Gia Thoại, sinh năm 1942 tại Nam
Định, mất năm 1989 tại TP. Hồ Chí Minh, nguyên là giám đốc nhà xuất bản
Trình bầy, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Trình bầy, nhật báo Làm dân; thư ký toà soạn các tạp chí Đất nước, Nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước 1975. Tác phẩm đã công bố: Hồi chuông tắt lửa, Nuôi con nhơn tình, Từ dưới vực sâu, Nghĩ gì (hai tập, ký bút danh Trần Trọng Phủ), Cho một ngày mai mơ ước.
No comments:
Post a Comment