Saturday, July 13, 2013

Thanh Tâm Tuyền


 (1936-2006) là một nhà thơ, nhà văn gốc Việt nổi tiếng như một trong những người khai sáng của lối thơ mới trong Nam bằng tập thơ thể tự do đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam nhan đề Tôi Không Còn Cô Độc xuất bản năm 1956.

Tên thật là Dzư Văn Tâm, ông sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại thành phố Vinh, Nghệ An và mất ngày 22 tháng 03 năm 2006 tại Minnesota, Hoa Kỳ do ung thư phổi.
Ông theo gia đình di cư vào Nam khi còn rất trẻ.
Năm 1954 ông chủ trương nguyệt san Lửa Việt. Sau đó, cùng với nhà văn Mai Thảo (19271998) thành lập Tạp chí Sáng Tạo từ 1956 đến 1960.
Ông được gọi nhập ngũ năm 1962, giải ngũ năm 1966; được tái động viên năm 1968 trở thành sĩ quan cấp Úy của quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau 1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo trong 7 năm, sau đó trở về và được đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO.
  Thơ của ông, cho đến nay, vẫn còn là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều nhà thơ có khát vọng đổi mới. 

HẢI ĐẢO



Trên biển mù sóng cuộn

Ngày lộng tuôn như máu loang khô

Sóng thảng thốt dập vùi hải đảo

Cửa ngàn trùng gió mở toang

Nâng niu máu rỉ cườm tay nhỏ

Thời khắc câm tiếng nỉ non



Hải đảo xa vời em

Trên miền non cao rừng rú

Gió gào giận khốn tù

Trong cõi mộng hung tàn

Một mùa đông dài bão táp

Đêm qua ác điểu đậu cành khuya

Thả rớt trái tim ác độc

Trong một tiếng tang thương

Đêm qua gió cắp mộng lên non trốn chạy

Rồi gió hú van

Trong hành lang tối ám giờ lâm tử



Hải đảo xa vời em

Trời chuyển màu chớp xé

Cánh chim bay cánh chim bay

Vào mùa hư không trôi nổi

Khi bóng đảo chìm



1972





VẪN EM



Vẫn em đồi trăng phơi mờ hoặc

Tóc buông giải thẫm xoá canh thâu

Vẫn em rừng lũng khuya trốt lộng

Ngút đen mắt lạc ruổi tin sương



Vẫn em đồng sông sao trời hạ

Phập phồng tan nát lượng thời gian

Vẫn em dáng cây nghiêng nẻo khuất

Sương muộn ham mê thức lá buồn



Vẫn em ngực thở vùi cơn bão

Trải niềm không, xô xát niềm klhông

Vẫn em trận mưa giông vách núi

Mở buốt mông lung ngõ đất trời



Vẫn em thoáng trắng mây hiền hậu

Ngẩn ngơ soi mặt biển điêu linh

Vẫn em đoá quỳnh run hoảng nở

Hương thầm choàng riết cõi đêm ta.



2-73

(Giai phẩm Văn tháng 11.1973)





ĐỈNH NON XA

Tặng Vũ Duy Hiền và Trần Kim Hải



Hôm ta từ núi cao đi xuống

Trời phả sương mê lạnh nhạt hồn

Đá vách ngún mây kiêu bạc hống

Nhập nhoà tiếng ngậm bặt tang thương.



Trắng phếu sườn non ngày mới chớm

Một đoá trăng tàn lẩn lút bay

Mùa hiu hắt thổi hoang vu quyện

Lòng ta lạnh vắng như cỏ cây.



Dưới ngọn đèo xa loé nắng xưa

Phiêu bạt rừng già dìu dặt mưa

Triều lũng dựng xanh cuốn gió đáy

Mang mang giọng điệu trí câm mù.



Ta nhớ sau lưng núi thanh thản

Biếc ngây như lệ của đêm điên

Ta nhớ rằng ta không nhớ nữa

Như cây trơ trụi mùa hưu miên



Như phiến gỗ nặng thả theo nước

Bập bềnh trôi nổi ta về xuôi

Như lau lách mọc chen bờ bãi

Phất phơ tóc bạc lả theo trời.



(Giai phẩm Văn 3.9.1974)





HẠ CA



Em vén tóc cho cao

Trưa nay trời nồng nực

Đầu cành xa hoa đỏ trổ ngời

Óng ánh nắng mật

Ngửng trông giếng khơi tuyệt ngấn mây

Đáy biếc toả



Tháng tư chói lọi vây

Chập chùng lấp loá

Ngày nôn nả ngây

Diễm lệ kinh hoàng

Giấc chon von còn chưa rớt ngã

Rực rỡ im vang.



Này em dừng nghe

Thời gian lặng thiếp cháy

Thong thả thong thả

Tình si thong thả

Lửa đầm say đê mê

Long lanh ngút ảo



Trên phố xá bừng héo hon

Rạng um xanh cây cối

Trổi râm ran điệu ve sầu bôn chôn

Van vỉ như hớt hải mờ tối

Phương hướng nào cũng mở mông lung

Quýnh quáng đốm trời diệu vợi.



Thả em bên kia chiêm bao nghĩ thoáng

Rong suốt giải phân ly

Theo đam mê lững thững

Ô em quỷ mị mùa hè

Sông nước phơi vàng xoá bờ bến

Tịch mịch rơi hạt lệ quạnh không.



Thản nhiên thản nhiên thôi

Tim khờ dại

Ngục tù thênh thang đắm tiếng gọi

Máu thổ hoa ngầu thắm tươi cười

Kìa vầng dương trút rợp huyễn hoặc

Biển khô mù hát trầm vong khôn nguôi.



4-74

(Giai phẩm Văn 21.5.1974)





THẨM NHỦ

Tặng Cung Tiến



Dưới đáy vực gió cuồng

gió mê say phủ mờ cơn náo động

mặt mũi đám dông

đêm bay hoảng

Tôi đứng đấy như con công tôi múa

xoè bộ mã đời mình nũng nịu

như trên chót đỉnh khoe khoang

Tôi đứng đấy những tơ giăng phù phiếm

con nhện rớt hoài

trong màng lưới rách bung

của lời đong đưa trắc nết



Này tôi đứng

khoác manh áo cũ

che bụi mưa tàn

mưa lạc mùa mưa thoảng buốt phút sầu

mưa trên cao những bàn tay vẫy

nhịp tình dâng và

những nhịp không

thân nhẹ nhõm phô bày



Này tôi đứng

trên sợi dây treo

ngửa mặt trông đêm nhún nhẩy

nghe nỗi lao đao

mây rong cỏ muộn

những điệu đẩy dồn và

điệu tả tơi

như chút tính mệnh nào còn níu



Tôi thầm nhủ

Ồ, em cơn điên thường lạnh nhạt

khi men tê đầu lưỡi thèm

lời lẽ điếm đàng nuốt chửng

mỗi đêm nay mỗi ngày nay

suốt cơn mê gió nổi

tôi thầm nhủ

trò đùa mãi không thôi

em cười mãi không thôi

chạy nhầu trên đồi xa khuất bóng

và núi hãi hùng

này tôi còn đứng tôi thầm nhủ



1-69





TUẦN GÁC



Bây giờ bốn giờ sáng đêm đang xoè cánh hư vô

Sông Sài Gòn trôi dưới chân một vết sương mờ

Trái hoả châu loè sáng rớt xuống

Rớt xuống

Lửa vàng hoen treo đầu tiếng ca

    -  Em ơi, em ơi ngồi đây anh nhớ em

Người lính gác trốn rét núp mình

Trong áo tơi chùm kín ủ khúc hát

Chợt đáp trên môi bay cao luồn khoả ngục

Vỗ cánh

Như con chim chập choạng vòng điếm hoang

Anh trèo rung thang sắt dốc ngược

Những chiếc xuồng đốt đuốc men bờ thành

Mò xác người chết đuối

(Thiếu nữ sẩy chân bến Đáy ban chiều)

Tiếng khóc bật chìm trên cù lao đối thủ

Như cỏ gianh khua

Như con tàu say lô cốt bấp bênh

Trái hoả châu rụng tàn

Mồi đuốc chập chờn cùng khúc hát âm vang

Anh bảo: Khua kẻng lên hãy kêu đồng bạn

Pha đèn sâu trong các vùng tử giác

Tiếng sắt dầy âm u truyền mãi hồi đối đáp

Trong hang động vô cùng rét lạnh và cô đơn

Lô cốt thả neo giữa không trung

Trái phá nổ ngậm miệt rừng chồi, hàng dừa nước ven sông ùa sáp tới

Anh bảo: Đừng ngủ em, chống mắt lên, chờ kẻ địch

Đừng ngủ em, trời sắp sáng, đừng ngủ em

Anh trở xuống lẩn vào đám cao ướt sắc vượt đầu

Và lại nghe khúc hát mỏng như tợ sợi rét dăng ngang mặt

    -  Em ơi, em ơi, ngồi đây anh nhớ em.





Khúc tháng chạp



Cớ sao chim tinh khôn, chim chẳng hay mùa đông chụp tới? Mùa đông, người thiếu phụ điêu ngoa vẻ u tình, người thiếu phụ hỗn hào nhẫn tâm quật thúc mê man. Người thiếu phụ không biết hổ ngươi. Mỗi ngày soi tấm gương hoen âm bầu trời đục dữ dằn, soi mắt mình trong mắt mình. Leo ngược dốc đứng, dốc trơn trùi nhọn hoắt. Rơi lăn lóc như bụi sạn.



Ôi — Chim hiếm hoi, chim lạ kỳ, chim bé bỏng. Vụt bay nỗi sầu bi, cánh hân hoan xơ xác. Hiểu không sự lênh đênh cùng thẳm? Hiểu không ngọn lao đao tuyệt tích? Hiểu không con bấc mù mất dấu trên đồng bưng mặt ngất? Hiểu không? ... Hiểu không. Những thoáng chốc vi vu nứt nẻ?



Mùa đông nham hiểm. Tiếng vang âm gian tà. Chuỗi đêm mòn trắng. Cành trụi lá gẫy khô. Trong bưng bít đắm đuối, thân vang rời mài miệt... Từ đỉnh thầm, đầu ngọn cỏ, thức mây đùn. Ôi mùa đông hố bẫy, ngời đen ngươi dẫn dụ. Chút bấp bênh đùa rỡn loã lồ xuyên luồn mũi kim rỉ sét. Ôi — tiếng vang lừng rơi ngã của ham mê, tiếng vang chết yểu giữa tường vách chật bóng điên loà.



Nội không quạnh quẽ như ngàn cõi chiêm bao vượt. Đập vỗ, đập vỗ hoài con mắt buốt, con mắt vi ty rụng trụi lớp mi che, không động thức. Con mắt khờ câm căng chống. Tưởng dáng mùa hè chín ối. Tưởng nét mùa thu lung linh. Đã bay qua, bay qua nghìn mệt mỏi. Như điệu ngân hụt hẫng. Mưa buông khít chân trời, mưa rũ liệt làm sao ngớt, mưa giả lả. Những huyệt trốt cuốn, vật nài chim ngây thơ khoá cánh, vùi dập chim mỏng mảnh trong khuất khúc giá băng. Đắp điếm những mai chiều như bao giờ xỉn cũ, những canh tàn giấu cất, những khuya lên rách rưới như bao giờ. Như bao giờ, hiểu không như bao giờ?



Ôi — Chim bé bỏng, chim bé bỏng hoài.

Và mùa đông thổi chuyến bay trong cõi rỗng.



(12-69)






ÓNG ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm bút viết về văn chương — làm một thứ văn chương trên văn chương — tôi hiểu rõ mình đang sống thời buổi khủng hoảng. Văn chương nhất thiết là hồn nhiên, ngây thơ hay không, tôi chẳng rõ. Nhưng đối với tôi khi nó cần trông thấy nó qua phản ánh của nó, không thể phủ nhận là nó đang truỵ lạc, sa đoạ. Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập lại với tôi khẩu hiệu: Enfin, j’écris. Enfin, đó là tín hiệu của người bạn thân phát ra giúp tôi nhận biết anh ta bắt đầu say. Trong cuộc rượu của chúng tôi đã tới một thời điểm gay cấn, hãy nhận Enfin, báo động cho bạn bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất ổn, chán quá, chán quá, tôi quyết định đẩy cơn say đến cùng, đánh đắm mình vào mông lung, mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu: “The time is out of joint” (Thời gian đã ly tán). Như Hamlet, chẳng còn hiểu đời sống, hươi gươm đâm chết nàng Ophélia. Cơn khùng điên óng ánh những mảnh minh trí vỡ nát, những mảnh sao băng miệt mài, không một giây đốn ngộ, từ khước đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời sống mênh mông vô hạn. Đó định mệnh của văn chương trên văn chương, nỗ lực soi rọi mù mờ bằng những ánh mù mờ, nỗ lực kết tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly tán.
Enfin, j’écris. Enfin, je crie.
Thảm thiết chưa, cũng lố bịch chưa, văn chương kêu la tắt tiếng trên văn chương. Văn chương soi bóng làm bộ làm tịch trước văn chương. Mỗi phen tôi đều nổi da gà, nhờm tởm, thấy mình đang đóng vai chủ chứa trong tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của Genet. Trong nhà chứa của mụ này, mỗi phòng được bài trí một kiểu dành riêng cho một vai nhất định mà khách chuộng đóng — tu sĩ, tướng lãnh, quan toà, cách mạng — với đầy đủ y trang và các thứ phụ tùng cần thiết để đóng trò — mọi trò điển hình của dục tính thác loạn — nữ nhân là phụ tùng thiết yếu, nhưng phòng nào cũng có gắn gương để cho các đương sự có thể nhìn ngắm mà sửa bộ.
Ngôi nhà chứa ở trong một thành phố dấy loạn. Và trên bao lơn của nhà chứa, khách làng chơi và gái giang hồ dẹp loạn.

LE POÈTE MAUDIT
“Tôi viết chỉ bởi lẽ tôi không thể nào làm khác.” (Je n’écris que parce que je ne puis faire autrement) và “Đáng nguyền rủa thay con tim không biết đường tự chế.” (Maudit soit le coeur qui ne sait se contenir — "Penthésilée"). Đó là những lời than thở của Kleist, đối cực của Goethe.
Tôi tự hỏi còn không cái tông giống thuần khiết kia? Gương mặt ngửng cao dưới bầu trời giông bão, trán hứng nhận sấm sét và cất giọng gào ca một điệp khúc hân hoan thịnh nộ của con người, ganh đua cùng trời đất quỷ thần. Quả nhiên là cái tông giống đáng nguyền rủa, dập vùi. Đáng nguyền rủa cái hào quang của tuyệt vọng, đáng dập vùi cơn đam mê khốn cùng của một tông giống.
Keats hát: “Hạnh phúc thay ở trần gian này lại còn có nấm mồ (Je suis heureux qu’il y ait ici bas une chose telle que la tombe).
Nhưng còn không, còn không những vầng trán hiền lộng mênh mang của một cõi ngoài, những cửa miệng há mở cho nhảy thoát con tim đỏ ối, những đôi mắt căng banh dập dồn ánh lửa uy linh một đời khác? Còn không một tấm lòng trinh bạch? Còn không chút thơ ngây dại dột, chẳng làm tuồng?
Nhận chịu bị nguyền rủa (không phải được bị nguyền rủa) - chẳng hiểu sao, bởi không thể khác — như con chim thất lạc giữa mùa đông băng giá, cất tiếng kêu thảm thiết gọi nắng, gọi hoa và đợi chết? Chim bị nguyền rủa, chẳng nguyền rủa. Còn không? Còn không?
Dường như sau buổi tân hôn bi tráng của Kleist, tắm đượm niềm hoan lạc phi thường — Tử thần lẫm liệt uy nghi đã bị Kleist nặn thành tượng trưng bày — cái tông giống kia không thể tồn tại bởi không thể vượt hơn. Hãy nghe Kleist viết thư từ biệt cô em gái:
“Que le ciel t’accorde une mort qui ressemble, ne fûtce qu’à moitié, à la mienne en joie et en sénérité; c’est le voeu le plus sincère et le plus tendre que je puisse former pour toi.”
(Cầu trời ban cho em một cái chết hân hoan và thanh tịnh giống như cái chết của anh, bằng phân nửa thôi cũng được; đó là lời cầu chúc chân thành nhất, âu yếm nhất mà anh dành cho em.)
Chàng thơ ấy bình thản nhìn lần cuối mớ bản thảo của chàng, một quyển tiểu thuyết đã hoàn tất, hai vở kịch - tất cả giông tố mê mải của hồn chàng đó — nhưng bấy giờ lặng thinh mọi tham vọng — không ai màng những của nợ ấy và chính chàng cũng chẳng còn thiết (... J’ai cru savoir. Je savais toujours. Je sais peut-être mais personne ne veut ce secret et je n’en veux pas moi-même. Tôi từng tưởng biết. Tôi hằng vẫn biết. Bây giờ có lẽ tôi biết nhưng không một ai màng đến điều thầm kín ấy và ngay chính tôi, tôi cũng chẳng thiết — Camus — Trở Lại Tipasa). Và chàng thiêu huỷ đống giấy lộn kia (như Gogol, Kafka). Chàng viết gửi nhà chức trách bản tường thuật diễn tiến cuộc tự sát, mở đầu bằng câu: “Chúng tôi nằm chết trên con lộ...”
Kleist với một người đàn bà xấu xí bệnh hoạn và cũng cô đơn như chàng, thoả thuận chết cùng chàng, hớn hở như đôi uyên ương cùng rủ nhau đến Wannsee. Họ ngồi uống cà phê giữa trời. Người ta còn nghe họ cười ròn tan, đi khuất vào đồng cỏ. Đúng giờ đã ghi, hai phát súng nổ. Kleist đã kề súng bắn vào trái tim của người đàn bà đồng hội đồng thuyền rồi ngậm họng súng trong miệng mình nổ phát thứ nhì. Tay chàng không hề run rẩy.
“Tôi đã làm tất cả những gì thuộc quyền năng của một người... Tôi đã thử thách đến điều bất khả. Tôi đã mang đặt thời vận cuối cùng của đời tôi trong một tiếng bạc. Mấy con xúc xắc định mệnh đã thẩy lăn, tôi cố tìm hiểu... Tôi thua. (J’ai fait tout ce qui est dans le pouvoir d’un homme... J’ai tenté l’impossible. J’ai mis ma dernière chance dans un coup de dés. Les dés fatals ont roulé, j’essaie de comprendre... J’ai perdu!) — “Penthésilée”.
Tôi thua! Tôi thua! Và “tôi nghĩ tôi có quyền chết”.
Sau Kleist, không còn poète maudit. Mọi người đều bị nguyền rủa, đều được nguyền rủa, đều cùng nguyền rủa, đều tự nguyền rủa. Khốn khổ, thảm hại thay tuồng nguyền rủa. Tuồng văn chương truỵ lạc đấy thôi. Coi kìa Dosoievski đeo thánh giá, đọc diễn văn dưới chân tượng Pouchkine. Henri Miller khoác áo mô phạm đứng trên bục giảng đường thuyết pháp. Sartre từ khước Nobel, xuống đường tranh đấu, tự đoạ mình trong tự do... Nhiều vô xiết kể. Tất cả những người ấy, hết thảy những người — ít nhiều chăn nuôi ảo tưởng của văn chương nghĩa lý đều đã mang giấc mộng tột cùng / khốn cùng: trở thành maudit, đều từng đóng các tuồng tích và đều trở thành hề. Không chừa ai.
Đã tuyệt giống poète maudit. Còn chăng là những chàng thơ bị ám toán, “triệu triệu chúa Kytô có đôi mắt u sầu và hiền hậu” (O, million de Christ aux yeux sombres et doux) (Rimbaud).

1973

GIẢI ĐỀ: CHỮ TRINH CÒN MỘT CHÚT NÀY
Bạn ta — “Xuống núi” không tìm gặp bạn, nghĩ cũng tệ. Thật thì chẳng có lý do nào ngăn trở hết. Mỗi lần đáp xuống thành phố, vẫn chỉ ngần ấy thói quen: Ngồi quán, gặp vài khuôn mặt thân thuộc và ngày dứt trong khuya ngất ngưởng. Thế thôi, không gì khác. Ta chẳng thích mất những thói quen.
Xuống, nghe bạn ta lại phải dấn thân vào trường “gió tanh mưa máu”, còn mắc nạn nữa. Hơi buồn. Biết làm sao được, phải không? Đúng là “ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.” Cái nhà ông Nguyễn Du, lâu lâu sực nhớ ông, bắt giật nẩy mình. Ngày xửa, ngày xưa, ta đã cứ thắc mắc hoài về mấy câu nói của nàng Kiều khi tái ngộ chàng Kim... Chữ trinh còn một chút này, chẳng cầm cho vững lại dày cho tan. Giờ mới thấm thía, tội cho nàng Kiều biết mấy. Ông Nguyễn Du là chúa độc, hơn cả anh chàng Tây Độc (hỗn danh của bạn ta đó). Nàng Kiều trầm mình xuống sông Tiền Đường, tưởng đã thoát nợ kiếp này, ông lôi cổ lên đẩy về nhà, bắt phải mở mắt mà trông: Này chồng, này mẹ, này cha; này là em ruột, này là em dâu... Cô ngồi xuống đó đi, trước mắt đông đủ mọi người — hết thảy mọi người, yên ổn và êm ấm nhưng không thể quên cô — và trước mắt tình lang mười lăm năm cũ cô ngồi đó trong kiếp đoạn trường nào đâu đã dứt. Cô đã trả món nợ hồng nhan cho ông trời già cay nghiệt, nhưng chưa xong. Còn cái món nợ tình với chàng Kim nữa, cô ơi. Ôi, cái món nợ tình, món thế tục cầm chân ta lại trong vòng khiến ta bắt buộc ngồi đó với bẽ bàng. Cái “bước trần ai” ta cứ động lòng. Nhưng mà động lòng đến chừng nào, hỡi bạn ta. Còn một chút này.... thật là thảm, bạn ta nghĩ mà coi. Chút này là chút nào? Chàng Kim chỉ có thể hiểu đến chỗ: Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Thiệt kỳ cục.
...
Giả như gặp nhau, ta cũng đến lặng ngắt. Hoặc giả ta khua inh sự lặng ngắt. Thế thôi. Mà ta rõ đã lăn thân vào chốn ấy, bạn không muốn nghe sự lặng ngắt. Ta cũng đang khua gióng sự lặng ngắt đây. Bạn ta nghe chăng?




No comments: