Saturday, August 3, 2013

Nhật Tuấn - Trí khôn các bác để đâu ?


             

 Con nai …vờ ngơ ngác…

                                                           

     Ngay sau khi giành được  chính quyền ở Sàigòn, Nhà nước VN đã tổ chức “một khoá học tập gọi là khoá bồi dưỡng chính trị dành cho văn nghệ sĩ”, “cấp tốc đưa từ Hà Nội vào những nhân sự có vai vế trong giới văn học của miền Bắc như Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bảo Định Giang...v..v...” và thơ Lưu Trọng Lư  “đã kể lại con đường phục vụ "cách mạng" của mình và kêu gọi văn nghệ sĩ  miền Nam hãy mạnh dạn đi theo con đường mà ông đã trải qua. “.
Thực ra chẳng phải chờ tới “khoá bồi dưỡng chính trị” này, ngay sau ngày Huế rơi vào tay “bộ đội giải phóng”, đứng trước cảnh nhà cháy, người chết, gia đình ly tán,  nhà thơ Lưu Trọng Lư  đã “kể lại con đường của mình” bằng những lời sảng khoái, mừng rỡ trong bài thơ “Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi “ :
                              “ Đất này không phải xứ sở của thần tiên,
                              Người với người thôi , sao mà đẹp vậy…
                              Đường ta đi thế đấy
                              Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi…”
Ba ngày sau khi tiếng súng đã tắt trên cố đô, đặt chân trên đường phố Huế, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã bịt tai che mắt sao mà không nhìn thấy những dấu tích máu còn lại sau tết Mậu Thân, những thảm trạng người với người giết nhau, giành giật nhau cơ hội sống còn trong trốn chạy, tưởng như “Thượng đế đã chết trong thành phố”, vậy mà trái tim thi nhân của nhà thơ vẫn reo vui :
                              “ Người với người thôi, sao mà đẹp vậy…”
Phải đặt câu thơ vào thời khắc của lịch sử , người đời sau mới thấy hết được trái tim đen của thi nhân, ngòi bút của ông ta đã chấm vào mực hay máu để mà cười vui trước nỗi đau của dân tộc ?
                              “Như con ngựa đường trường
                              Ta về đây gõ móng
                              Trời cao đất rộng
                              Mở phanh vạt áo của hồn ta…”
Tháng  Tư 1975, từ biệt thự cơ quan Hội nghệ sĩ sân khấu 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội , “con ngựa đường trường “ Lưu Trọng Lư đã phi thẳng tới “ cố đô Huế “hỗn loạn để …gõ móng . Ong gõ vào ai vậy ? Tất nhiên không phải vào “Ban quân quản thành phố”, không phải “đoàn quân chiến thắng xạm màu súng đạn”, cũng không phải  Đại Nội rợp trời cờ đỏ ? Vậy thì nó chỉ còn gõ móng vào nỗi đau của đồng loại trong “mùa hè đỏ lửa” trên “đại lộ kinh hoàng” và liệu ông có coi những mẹ, những em, những nỗi đau “bọt bèo số phận” là “đồng loại” không ? Chắc là không ? Đồng loại của nhà thơ phải là những “mũ tai bèo đôi cánh đang bay”, những “em băng trong lửa đạn chiến hào , tóc nữ sinh cuốn theo vành mũ vải…”
Vô cảm với nỗi đau con người trong loạn lạc, Lưu Trọng Lư lại còn tự đấm ngực, bứt tóc, rên rỉ, gào rú cho thân phận của chính mình trước ngày ông có Đảng :
                              “ Oi !bé bỏng một tấm thân người
                              Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống c
                       Có nỗi thương của Giêdu, có nước mắt của Phật
                              Và trên tay áo này,
                                 Trên tay áo này
                              Những giọt đau !
                              Những giọt đau !
                              …Trong cõi lạnh hư vô
                              Một con đò, ôi một con đò…”
Viện cả đức Chúa Giêsu và đức Phật Thích ca ra để mà “phản tỉnh con người cũ” liệu có lôi kéo được ông Nguyễn Khắc Viện ( người được Lưu Trọng Lư tặng bài thơ này” đi theo “ Đường ta đi thế đấy…”  :
                              “Ta một giang hồ thi sĩ
                              Dừng nghe tiếng gọi từ xoáy hồn ta
                              Hay tiếng gọi từ một bến bờ xa
                              Tiếng gọi từ một bến bờ xa
                              Tiếng gọi từ một bến bờ quang đãng
                              Trận gió Thu và những ngày Tháng Tám
                              Đắng cay sực tỉnh, mình lạnh mồ hôi…”
Đó, một “giang hồ thi sĩ” lớn như  Lưu Trọng Lư  còn đi theo Cách mạng Tháng Tám, huống hồ nhà viết sách “học làm người” như Nguyễn Khắc Viện còn chần chừ làm chi ? Thôi thôi hãy cùng nhà thơ lên đường :
                              “ Rồi với kẻ cùng đi
                              Với những tấm lòng theo nhau vào trận đánh
                              Thế thôi !mà sao vất vả rộn ràng…
                              Một ngày qua nhanh, tiếc ngẩn…”
Lời rủ rê này chẳng  riêng gửi bác Nguyễn Khắc Viện mà cho cả trên 400 văn nghệ sĩ Sàigòn trong “khoá học chính trị “ ngày đó. Các quý vị còn chần chừ gì nữa, hãy “theo nhau vào trận đánh”, chậïm một ngày là tiếc ngẩn một ngày, đơn giản thế thôi mà sao cứ “vất vả” chần chừ mãi thế ? Tiếc thay, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của nhà thơ, chỉ vài năm sau , gần 400 văn nghệ sĩ này đã bỏ của chạy lấy người, rủ nhau biến sạch ra…hải ngoại.
Làm thơ chưa đã, Lưu Trọng Thư  còn diễn dịch ra 80 trang văn xuôi “Đường  ta đi thế đó bạn lòng ơi…” để “giác ngộ thanh niên Huế”.
“ Sau khi Huế giải phóng dược vài hôm, giữa phố Paul Bert cũ , tôi đã gặp mấy thanh niên…Cũng không hiểu sao, họ đã nhận ra tôi và điều đầu tiên là họ muốn biết từ Tiếng thu những bước đi của tôi như thế nào ?”
Và nhà thơ hãnh diện trả lời :
“ Còn thế nào nữa ?
Tôi ngày nay đã là một người cộng sản. Với những người bạn trẻ ở miền Nam vừa được giải phóng, những bạn đã từ một đêm dài trở lại với ánh sáng, hôm nay tôi muốn có đôi lời gửi gắm…”
Nào các bạn thanh niên miền Nam vừa từ “đêm dài” trở lại “ánh sáng”, sắp được rời thành phố lên rừng đi kinh tế mới, sắp được khăn gói đi học tập cải tạo, sắp  được bước vào công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền Nam, các bạn hãy lắng nghe nhà thơ “Tiếng thu” ngày xưa , “cộng sản” ngày nay gửi gắm những lời lẽ gì ?
Sau khi nhắc lại hình ảnh ông là chiếc thuyền nhỏ bé đi giữa hai bờ sống chết, nhà thơ tâm sự : “ Câu thơ này thật ra có thể tổng kết cả một thời trai trẻ của tôi , nói lên cả một chân lý cuộc đời tôi…Thật là lênh đênh giữa hai bờ sống chết. Không phải thân thế tôi chỉ “giang hồ “ trong cuộc sống , mà tâm tư tôi còn “phiêu bạt” trong cõi đất trời mông lung mà tôi không hiểu nổi…”
Trong cả chục triệu thanh niên miền Nam trước 1975, liệu có được bao nhiêu người “lênh đênh giữa hai bờ sống chết”,” giang hồ” trong cuộc sống”,  “tâm tư phiêu bạt trong trời  đất” như nhà thơ ? Khéo lắm chỉ có đám đâm thuê chém mướn, “đá cá lăn dưa” ở chợ Cầu Muối mới có cùng tâm trạng với ông, còn tuyệt đại đa số thanh niên miền Nam vốn chí thú làm ăn và coi gia đình là gốc,  vậy lời “gửi gắm” của ông còn có tác dụng gì? Vậy nhưng ông vẫn kiên trì kể lể :
“ Tôi có thể nói từ thủa nhỏ, từ nhà tôi, một nhà quan cũng như từ cung vua của Thái tử đi ra tám hướng, hướng nào cũng ngập những nỗi khổ đau của con người…Tôi đi tới phương nào cũng gặp những nối khổ đau của con người. Nào tôi đã làm gì để giảm nhẹ , để xoá bỏ nỗi đau khổ của con người ?”
“ Đời là bể khổ” mà, Phật đã dậy rồi. Vậy là mang lý tưởng của Đức  Như Lai, cậu bé Lưu Trọng Lư  lên đường để “xoá bỏ nỗi đau khổ của con người”. Oâi cao quý thay…Vậy cậu đã làm gì ?
“ Cũng chỉ đến đổ nước mắt thôi!Chỉ có nước mắt thôi , không cứu nổi con người đâu …”
Vậy thì cái gì cứu nổi con người. Chẳng vòng vo gì nhiều, ông nhà thơ huỵch toẹt :
“Sau này khi tôi có bài thơ nói về Đảng của tôi, trong đó có câu :
                              “ Mẹ không cho nhiều nước mắt Như Lai…”
Là ý nghĩa như thế, Đảng trân trọng những gịọt nước mắt nhưng Đảng không khuyên con người cứ chết chìm trong nước mắt. Niệm một nghìn lần câu “ Đời là bể khổ” cũng không cứu đời ra bể khổ…”.
Vậy là đã rõ, đứng trước mọi khổ đau của kiếp người cho dù bố đi cải tạo, mẹ vất vả thăm nuôi, chị gái ra đứng đường, em gái liếm lá ngoài chợ… thì cũng không nên “ chết chìm trong nước mắt”. Vậy phải làm gì ? Oâng nhà thơ đã vạch cho tuổi trẻ  miền Nam một lối thoát : tin yêu vào cuộc sống .
“ Sự tin yêu cuộc sống đã cho tôi sức trẻ…Trong thơ văn tôi đã nhắc nhiều lần đến hai chữ “hồi sinh”. Trong bài thơ “Tiếng thu II” tôi có câu :
                              “ Những kiếp người tất tả hồi sinh”
Vậy “hồi sinh” tôi hiểu thế nào ? Là từ bỏ những gì vẩn đục , đen tối xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn…” 
Rất chí lý, hàng triệu thanh niên miền Nam đã thực hiện y như lời gửi gắm của nhà thơ Lưu Trọng Lư, họ cũng từ bỏ những gì vẩn đục, đen tối, xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn, chỉ tiếc rằng họ “hồi sinh” bằng “đôi chân” chạy trốn khỏi cái xứ sở thời đó mà đến cái cột đèn nếu có chân cũng phải bỏ đi…
Tất nhiên ông nhà thơ không đời nào muốn tuổi trẻ miền Nam “hồi sinh” theo kiểu “ bỏ phiếu bằng đôi chân đó”, ông muốn  các em trước hết hãy đi vào …nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê  mà ông kêu to lên như người mới phát hiện ra chân lý :
“ Oâi !Duy vật biện chứng pháp bao nhiêu ngày tháng tôi triền miên trong cái trầm hương  đó toát ra từ cái cốt lõi sự vật.Và mỗi ngày tôi ngắm xung quanh tôi muôn vàn biểu hiện , vô vàn biểu hiện phong phú, rực rỡ của cái người đời gọi là vật chất, cái duy nhất có thật ở đời…”
Oâi, ở miền Bắc sau hơn 20 năm nghiên cứu học tập, chẳng còn mấy ai tin vào cái “biện chứng pháp “ ấy nữa, bởi vậy nhà thơ mới mang nó vào miền Nam, thật đúng là “củi mục bà để trong rương , hễ ai hỏi đến trầm hương của bà”…

Đặt chân rất sớm vào Sàigòn sau Tháng Tư năm 1975, từ Hội trường Khoá bồi dưỡng chính trị cho gần 400 văn nghệ sĩ  “chế độ cũ”, nhà thơ Lưu Trọng Lư  đi thẳng tới khám Chí Hoà …làm bài thơ “Tìm anh” :
                              “ Đập cổng Chí Hoà không thấy bóng
                              Tay cầm hoa trắng , đi tìm anh…”
Nhà thơ tìm ai vậy ? Có phải một bạn thơ cũ ngày trước làm việc cho Mỹ-nguỵ hoặc họ hàng thân thuộc có dính dáng tới chính quyền cũ nay bị cách mạng bắt giam ?
                              “Qua cầu Công lý nhìn mây nước
                              Tưởng thấy hình anh giữa biếc xanh…”
Hoá ra không phải, người mà nhà thơ cất công tới tận nhà ngục tìm chính là anh…Nguyễn văn Trỗi, chưa một lần gặp mặt mà chỉ biết tới qua bút ký “ Sống như anh” của Trần Đình Vân. Trong thời điểm các nhà thơ miền Bắc mới đặt chân vào Sàigòn ngay sau ngày ông Dương văn Minh tuyên bố “bàn giao chính quyền”, cũng nên nhắc tới Huyền Kiêu, một nhà thơ lão thành miền Bắc, khi vào Sàigòn đi ra ngoại ô đã cảm thán làm bài thơ “Gặp người thương binh  nguỵ trên cầu Bình Triệu” với chút cảm thông, lập tức nhà thơ bị phê phán và bị đưa về “ngồi chơi xơi nước “ tại NXB Văn Học. Suốt cả đời thơ, Lưu Trọng Lư tuyệt nhiên không va vấp, không có câu thơ nào làm mếch lòng Đảng, không có bất kỳ một “tai nạn nghề nghiệp” nào như rất nhiều đồng nghiệp khác. Ngay cả mấy năm sau, năm 1979, nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc, được lên Cao Bằng để chứng kiến bọn bành trướng Trung Quốc  giết hại các em nhỏ ở một lớp học, được giao làm thơ để tố cáo bọn bá quyền dã man, nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng tính rằng đây chỉ là “ngọn gió quái”, sẽ qua mau, Trung Quốc vẫn “ vừa là đồng chí vừa là anh em”, nên ông làm một bài thơ  giữ kẽ, rất chung chung, không dám nêu đích danh kẻ thù lúc đó là quân xâm lược Trung Quốc :
                              Tội giặc
                              Từ chiến địa trở về
                              Ngủ một đêm Đèo Gió
                              Trăng như vừng gương nhỏ
                              Trên tay em gái sàn
                              Nước máng từng giọt tràn
                              Như đàn tranh tưng tửng
                              Hương bưởi gần thoang thoảng
                              Nằm nghe gió rúc xa
                              Dưới ánh lửa hồng cô giáo Thuỷ
                              Nhớ trò, nhớ lớp ngồi ngẩn ngơ.
                                                      Cao Bằng 3-79
Với bọn Khơ me đỏ, Pônpốt, Iêng xary cũng vậy, dẫu sao các “đồng chí” đó vẫn là cộng sản, chửi đích danh đâu có được :
                              “Tới đây mắc võng Trường Sơn
                              Có thu trước mặt , có xuân bên mình
                              … Sáng nay con đến ven rừng
                              Thấy cành hoa đẹp vết thương trên người
                              Chết rồi còn đỏ làn môi
                              Thấy sỗ sàng thân ngọc, con  nghiêng cài áo khuy…”
                                                               

No comments: