Con nai …vờ ngơ ngác…
Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sàigòn, Nhà nước VN đã tổ chức
“một khoá học tập gọi là khoá bồi dưỡng chính trị dành cho văn nghệ sĩ”, “cấp tốc đưa từ Hà Nội vào những nhân sự có vai
vế trong giới văn học của miền Bắc như Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Tô
Hoài, Bảo Định Giang...v..v...” và thơ Lưu Trọng Lư “đã kể lại con đường phục vụ "cách
mạng" của mình và kêu gọi văn nghệ
sĩ miền Nam hãy mạnh dạn đi theo con
đường mà ông đã trải qua. “.
Thực
ra chẳng phải chờ tới “khoá bồi dưỡng chính trị” này, ngay sau ngày Huế rơi vào
tay “bộ đội giải phóng”, đứng trước cảnh nhà cháy, người chết, gia đình ly tán, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã “kể lại con đường của mình” bằng những lời
sảng khoái, mừng rỡ trong bài thơ “Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi “ :
“ Đất này không phải xứ sở của thần tiên,
Người với người
thôi , sao mà đẹp vậy…
Đường ta đi thế
đấy
Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi…”
Ba
ngày sau khi tiếng súng đã tắt trên cố đô, đặt chân trên đường phố Huế, nhà thơ
Lưu Trọng Lư đã bịt tai che mắt sao mà không nhìn thấy những dấu tích máu còn
lại sau tết Mậu Thân, những thảm trạng người với người giết nhau, giành giật
nhau cơ hội sống còn trong trốn chạy, tưởng như “Thượng đế đã chết trong thành
phố”, vậy mà trái tim thi nhân của nhà thơ vẫn reo vui :
“ Người với người
thôi, sao mà đẹp vậy…”
Phải
đặt câu thơ vào thời khắc của lịch sử , người đời sau mới thấy hết được trái
tim đen của thi nhân, ngòi bút của ông ta đã chấm vào mực hay máu để mà cười
vui trước nỗi đau của dân tộc ?
“Như con ngựa đường trường
Ta về
đây gõ móng
Trời cao đất rộng
Mở phanh vạt áo
của hồn ta…”
Tháng Tư 1975, từ biệt thự cơ quan Hội nghệ sĩ sân
khấu 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội , “con ngựa đường trường “ Lưu Trọng Lư đã phi
thẳng tới “ cố đô Huế “hỗn loạn để …gõ móng . Ong gõ vào ai vậy ? Tất nhiên
không phải vào “Ban quân quản thành phố”, không phải “đoàn quân chiến thắng xạm
màu súng đạn”, cũng không phải Đại Nội
rợp trời cờ đỏ ? Vậy thì nó chỉ còn gõ móng vào nỗi đau của đồng loại trong
“mùa hè đỏ lửa” trên “đại lộ kinh hoàng” và liệu ông có coi những mẹ, những em,
những nỗi đau “bọt bèo số phận” là “đồng loại” không ? Chắc là không ? Đồng
loại của nhà thơ phải là những “mũ tai bèo đôi cánh đang bay”, những “em băng trong lửa đạn chiến hào , tóc nữ sinh cuốn
theo vành mũ vải…”
Vô
cảm với nỗi đau con người trong loạn lạc, Lưu Trọng Lư lại còn tự đấm ngực, bứt
tóc, rên rỉ, gào rú cho thân phận của chính mình trước ngày ông có Đảng :
“ Oi !bé bỏng một
tấm thân người
Một chiếc thuyền
nan bồng bềnh giữa hai bờ sống c
Có nỗi thương của Giêdu,
có nước mắt của Phật
Và trên tay áo
này,
Trên tay áo
này
Những giọt đau !
Những giọt đau !
…Trong cõi lạnh hư
vô
Một con đò, ôi một
con đò…”
Viện
cả đức Chúa Giêsu và đức Phật Thích ca ra để mà “phản tỉnh con người cũ” liệu
có lôi kéo được ông Nguyễn Khắc Viện ( người được Lưu Trọng Lư tặng bài thơ
này” đi theo “ Đường ta đi thế đấy…” :
“Ta
một giang hồ thi sĩ
Dừng
nghe tiếng gọi từ xoáy hồn ta
Hay
tiếng gọi từ một bến bờ xa
Tiếng
gọi từ một bến bờ xa
Tiếng
gọi từ một bến bờ quang đãng
Trận
gió Thu và những ngày Tháng Tám
Đắng
cay sực tỉnh, mình lạnh mồ hôi…”
Đó, một “giang hồ thi sĩ” lớn như
Lưu Trọng Lư còn đi theo Cách
mạng Tháng Tám, huống hồ nhà viết sách “học làm người” như Nguyễn Khắc Viện còn
chần chừ làm chi ? Thôi thôi hãy cùng nhà thơ lên đường :
“ Rồi
với kẻ cùng đi
Với
những tấm lòng theo nhau vào trận đánh
Thế
thôi !mà sao vất vả rộn ràng…
Một
ngày qua nhanh, tiếc ngẩn…”
Lời rủ rê này chẳng riêng gửi bác
Nguyễn Khắc Viện mà cho cả trên 400 văn nghệ sĩ Sàigòn trong “khoá học chính
trị “ ngày đó. Các quý vị còn chần chừ gì nữa, hãy “theo nhau vào trận đánh”,
chậïm một ngày là tiếc ngẩn một ngày, đơn giản thế thôi mà sao cứ “vất vả” chần
chừ mãi thế ? Tiếc thay, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của nhà thơ, chỉ vài năm sau
, gần 400 văn nghệ sĩ này đã bỏ của chạy lấy người, rủ nhau biến sạch ra…hải
ngoại.
Làm thơ chưa đã, Lưu Trọng Thư còn
diễn dịch ra 80 trang văn xuôi “Đường ta đi thế đó bạn lòng ơi…” để “giác ngộ thanh
niên Huế”.
“ Sau khi Huế giải phóng dược vài hôm, giữa phố Paul Bert cũ , tôi đã gặp
mấy thanh niên…Cũng không hiểu sao, họ đã
nhận ra tôi và điều đầu tiên là họ muốn biết từ Tiếng thu những bước đi của tôi
như thế nào ?”
Và nhà thơ hãnh diện trả lời :
“ Còn thế nào nữa ?
Tôi ngày nay đã là một người cộng sản. Với những
người bạn trẻ ở miền Nam vừa được giải phóng, những bạn đã từ một đêm dài trở
lại với ánh sáng, hôm nay tôi muốn có đôi lời gửi gắm…”
Nào các bạn thanh niên miền Nam vừa từ “đêm dài” trở lại “ánh sáng”, sắp
được rời thành phố lên rừng đi kinh tế mới, sắp được khăn gói đi học tập cải
tạo, sắp được bước vào công cuộc cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh, hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền Nam,
các bạn hãy lắng nghe nhà thơ “Tiếng thu” ngày xưa , “cộng sản” ngày nay gửi
gắm những lời lẽ gì ?
Sau khi nhắc lại hình ảnh ông là chiếc thuyền nhỏ bé đi giữa hai bờ sống
chết, nhà thơ tâm sự : “ Câu thơ này thật ra có thể tổng kết cả một thời trai
trẻ của tôi , nói lên cả một chân lý cuộc
đời tôi…Thật là lênh đênh giữa hai bờ sống chết. Không phải thân thế tôi chỉ
“giang hồ “ trong cuộc sống , mà tâm tư tôi còn “phiêu bạt” trong cõi đất trời
mông lung mà tôi không hiểu nổi…”
Trong cả chục triệu thanh niên miền Nam trước 1975, liệu có được bao
nhiêu người “lênh đênh giữa hai bờ sống chết”,” giang hồ” trong cuộc
sống”, “tâm tư phiêu bạt trong trời đất” như
nhà thơ ? Khéo lắm chỉ có đám đâm thuê chém mướn, “đá cá lăn dưa” ở chợ Cầu
Muối mới có cùng tâm trạng với ông, còn tuyệt đại đa số thanh niên miền Nam vốn
chí thú làm ăn và coi gia đình là gốc,
vậy lời “gửi gắm” của ông còn có tác dụng gì? Vậy nhưng ông vẫn kiên trì
kể lể :
“ Tôi có thể nói từ thủa nhỏ, từ nhà tôi, một nhà quan cũng như từ cung
vua của Thái tử đi ra tám hướng, hướng
nào cũng ngập những nỗi khổ đau của con người…Tôi đi tới phương nào cũng gặp
những nối khổ đau của con người. Nào tôi đã làm gì để giảm nhẹ , để xoá bỏ nỗi
đau khổ của con người ?”
“ Đời là bể khổ” mà, Phật đã dậy rồi. Vậy là mang lý tưởng của Đức Như Lai, cậu bé Lưu Trọng Lư lên đường để “xoá bỏ nỗi đau khổ của con
người”. Oâi cao quý thay…Vậy cậu đã làm gì ?
“ Cũng chỉ đến đổ nước mắt thôi!Chỉ có nước mắt thôi , không cứu nổi con người đâu …”
Vậy thì cái gì cứu nổi con người. Chẳng vòng vo gì nhiều, ông nhà thơ
huỵch toẹt :
“Sau này khi tôi có bài thơ nói về Đảng của tôi, trong đó có câu :
“
Mẹ không cho nhiều nước mắt Như Lai…”
Là ý nghĩa như thế, Đảng trân trọng những gịọt nước
mắt nhưng Đảng không khuyên con người cứ chết chìm trong nước mắt. Niệm một
nghìn lần câu “ Đời là bể khổ” cũng không cứu đời ra bể khổ…”.
Vậy là đã rõ, đứng trước mọi khổ đau của kiếp người cho dù bố đi cải tạo,
mẹ vất vả thăm nuôi, chị gái ra đứng đường, em gái liếm lá ngoài chợ… thì cũng
không nên “ chết chìm trong nước mắt”. Vậy phải làm gì ? Oâng nhà thơ đã vạch
cho tuổi trẻ miền Nam một lối thoát :
tin yêu vào cuộc sống .
“ Sự tin yêu cuộc sống đã cho tôi sức trẻ…Trong thơ văn tôi đã nhắc nhiều
lần đến hai chữ “hồi sinh”. Trong bài thơ
“Tiếng thu II” tôi có câu :
“
Những kiếp người tất tả hồi sinh”
Vậy “hồi sinh” tôi hiểu thế nào ? Là từ bỏ những gì
vẩn đục , đen tối xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp
hơn…”
Rất chí lý, hàng triệu thanh niên miền Nam đã thực hiện y như lời gửi gắm
của nhà thơ Lưu Trọng Lư, họ cũng từ bỏ những gì vẩn đục, đen tối, xấu xa để
chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn, chỉ tiếc rằng họ “hồi
sinh” bằng “đôi chân” chạy trốn khỏi cái xứ sở thời đó mà đến cái cột đèn nếu
có chân cũng phải bỏ đi…
Tất nhiên ông nhà thơ không đời nào muốn tuổi trẻ miền Nam “hồi sinh”
theo kiểu “ bỏ phiếu bằng đôi chân đó”, ông muốn các em trước hết hãy đi vào …nghiên cứu chủ
nghĩa Mác Lê mà ông kêu to lên như người
mới phát hiện ra chân lý :
“ Oâi !Duy vật biện chứng pháp bao nhiêu ngày tháng tôi triền miên trong
cái trầm hương đó toát ra từ cái cốt lõi sự vật.Và mỗi ngày
tôi ngắm xung quanh tôi muôn vàn biểu hiện , vô vàn biểu hiện phong phú, rực rỡ
của cái người đời gọi là vật chất, cái duy nhất có thật ở đời…”
Oâi, ở miền Bắc sau hơn 20 năm nghiên cứu học tập, chẳng còn mấy ai tin
vào cái “biện chứng pháp “ ấy nữa, bởi vậy nhà thơ mới mang nó vào miền Nam,
thật đúng là “củi mục bà để trong rương , hễ ai hỏi đến trầm hương của bà”…
Đặt chân rất sớm vào Sàigòn sau Tháng Tư năm 1975, từ Hội trường Khoá bồi
dưỡng chính trị cho gần 400 văn nghệ sĩ
“chế độ cũ”, nhà thơ Lưu Trọng Lư
đi thẳng tới khám Chí Hoà …làm bài thơ “Tìm anh” :
“ Đập
cổng Chí Hoà không thấy bóng
Tay
cầm hoa trắng , đi tìm anh…”
Nhà thơ tìm ai vậy ? Có phải một bạn thơ cũ ngày trước làm việc cho
Mỹ-nguỵ hoặc họ hàng thân thuộc có dính dáng tới chính quyền cũ nay bị cách
mạng bắt giam ?
“Qua
cầu Công lý nhìn mây nước
Tưởng
thấy hình anh giữa biếc xanh…”
Hoá ra không phải, người mà nhà thơ cất công tới tận nhà ngục tìm chính
là anh…Nguyễn văn Trỗi, chưa một lần gặp mặt mà chỉ biết tới qua bút ký “ Sống
như anh” của Trần Đình Vân. Trong thời điểm các nhà thơ miền Bắc mới đặt chân
vào Sàigòn ngay sau ngày ông Dương văn Minh tuyên bố “bàn giao chính quyền”,
cũng nên nhắc tới Huyền Kiêu, một nhà thơ lão thành miền Bắc, khi vào Sàigòn đi
ra ngoại ô đã cảm thán làm bài thơ “Gặp người thương binh nguỵ trên cầu Bình Triệu” với chút cảm thông, lập tức nhà thơ bị phê phán và bị đưa
về “ngồi chơi xơi nước “ tại NXB Văn Học. Suốt cả đời thơ, Lưu Trọng Lư
tuyệt nhiên không va vấp, không có câu thơ nào làm mếch lòng Đảng, không có bất
kỳ một “tai nạn nghề nghiệp” nào như rất nhiều đồng nghiệp khác. Ngay cả mấy
năm sau, năm 1979, nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc, được lên Cao Bằng để
chứng kiến bọn bành trướng Trung Quốc
giết hại các em nhỏ ở một lớp học, được giao làm thơ để tố cáo bọn bá
quyền dã man, nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng tính rằng đây chỉ là “ngọn gió quái”,
sẽ qua mau, Trung Quốc vẫn “ vừa là đồng chí
vừa là anh em”, nên ông làm một bài thơ
giữ kẽ, rất chung chung, không dám nêu đích danh kẻ thù lúc đó là
quân xâm lược Trung Quốc :
Tội
giặc
Từ chiến địa
trở về
Ngủ
một đêm Đèo Gió
Trăng
như vừng gương nhỏ
Trên
tay em gái sàn
Nước
máng từng giọt tràn
Như
đàn tranh tưng tửng
Hương
bưởi gần thoang thoảng
Nằm
nghe gió rúc xa
Dưới
ánh lửa hồng cô giáo Thuỷ
Nhớ
trò, nhớ lớp ngồi ngẩn ngơ.
Cao Bằng 3-79
Với bọn Khơ me đỏ, Pônpốt, Iêng xary cũng vậy, dẫu sao các “đồng chí” đó
vẫn là cộng sản, chửi đích danh đâu có được :
“Tới
đây mắc võng Trường Sơn
Có
thu trước mặt , có xuân bên mình
… Sáng nay con
đến ven rừng
Thấy
cành hoa đẹp vết thương trên người
Chết
rồi còn đỏ làn môi
Thấy
sỗ sàng thân ngọc, con nghiêng cài áo
khuy…”
No comments:
Post a Comment