Lê Ngọc Trà: VĂN NGHỆ VÀ CHÍNH TRỊ
Mấy
chục năm qua đất nước chúng ta sống chủ yếu bằng đời sống chính trị.
Cách mạng, chiến tranh, các sự kiện chính trị, sinh hoạt chính trị đi
vào cuộc sống hàng ngày. Mọi thứ đều được đo bằng chính trị. Từ đánh giá
con người đến xem xét tác phẩm, tất cả chủ yếu đều quy về lập trường,
quan điểm, đôi khi cả những thứ rất xa như ăn mặc, cách sử dụng các hình
thức miêu tả nghệ thuật. Người ta cũng tự nhiên biến thành con người
chính trị lúc nào không biết. Trong không khí đó vấn đề văn nghệ và
chính trị, hay nói đúng hơn, chính trị và văn nghệ, trở thành vấn đề cơ
bản nhất của lý luận, thành nội dung chủ yếu của sáng tác nghệ thuật. Do
tầm quan trọng của nó, vấn đề chính trị và văn nghệ trở nên một đề tài
có cái gì như là hơi “thiêng”, và vì vậy ít người dám bàn hoặc giả có
bàn thì cũng chỉ nói một cách kính cẩn. Mà trong khoa học đã cung kính
như thế thì khó có thể có ý kiến gì cho mới mẻ, sáng tạo.
Tất cả chuyện đó dĩ nhiên có cái lý lịch sử của nó, mặc dù lịch sử là do chính con người làm ra.
Bây
giờ lịch sử nước nhà hình như đang chuyển sang một trang khác. Tình
hình không phải chỉ cho phép mà còn có nhu cầu bắt phải “đổi mới tư
duy”, tức là nghĩ lại, nghĩ khác đi. Vì lẽ đó bây giờ bàn lại chuyện này
chuyện kia cũng là điều bình thường, chẳng có gì là ghê gớm. Và nói lại
cũng chẳng phải để tính sổ hay sám hối, mà để tìm tòi, tự nhận thức cho
đúng hơn thôi.
Vấn
đề văn nghệ và chính trị cũng vậy. Lâu nay ở ta, một trong những nguyên
nhân làm cho văn nghệ nghèo nàn đi là cách hiểu, nhận thức của lãnh đạo
và của ngay chính giới sáng tác, lý luận phê bình về mối quan hệ giữa
văn học và chính trị.
Chúng
ta vẫn thường nói văn nghệ phục vụ chính trị. Nhưng nên hiểu vấn đề này
thế nào cho đúng? Thật ra mệnh đề “văn nghệ phục vụ chính trị” là nhập
cục hai vấn đề khác nhau: a) quan hệ của văn nghệ với một chế độ chính
trị, và b) quan hệ của văn học với chính trị như hình thái ý thức xã
hội.
Trong
mối quan hệ thứ nhất, nói văn nghệ phục vụ chính trị (tức một chế độ
chính trị) là đúng. Văn nghệ chính thống của một xã hội bao giờ cũng
phục tùng, phục vụ những nền tảng, những yêu cầu của việc xây dựng và
củng cố chế độ ấy. Đó là quy luật.
Trong
mối quan hệ thứ hai, nói văn nghệ phục vụ chính trị là không chính xác.
Ở đây chính trị và văn nghệ là hai hình thái ý thức xã hội có nội dung
riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng tồn tại độc lập. Ý thức nghệ
thuật không phải là sản phẩm hay nội dung đặc biệt của ý thức chính trị
mà là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, phát triển song song với ý
thức chính trị và các kiểu ý thức khác.
Nhu
cầu cần có ý thức chính trị và ý thức nghệ thuật là những nhu cầu cơ
bản, không thể thiếu của xã hội con người. Ý thức chính trị thể hiện
nhận thức của con người về cái tất yếu của lịch sử, thể hiện quyền lợi
chung của giai cấp, tập đoàn xã hội hay quốc gia, dân tộc, thể hiện quan
điểm và thái độ đối với các vấn đề kinh tế, quyền lãnh đạo xã hội, vấn
đề tự do.
Ý
thức văn nghệ, tuy không tách khỏi những mối quan tâm có tính chất chính
trị, vẫn có những nội dung riêng. Nghệ thuật là tiếng nói về số phận
con người, là câu chuyện về đời người. Đó là tiếng nói về cái gì rất
riêng đôi khi như ngẫu nhiên, vô cớ. Trong mối quan hệ với những vấn đề
chính trị thì chuyện cái đẹp, tình yêu, niềm vui, nỗi khổ của cá nhân
con người dường như chỉ là những cái gì vớ vẩn, yếu đuối, lãng mạn.
Nhưng trong mối quan hệ với cuộc đời thì đó lại là những gì hết sức máu
thịt; không thể hình dung cuộc đời nếu thiếu những thứ tưởng như không
đâu ấy. Chính trị là cái cốt yếu quan trọng của xã hội, nhưng cuộc đời
rộng hơn chính trị.
Chất
văn khác chất chính trị. Nhà văn không phải là chính khách. Nghệ sĩ mà
đi hoạch định đường lối kinh tế – xã hội thì phải coi chừng. Không phải
ngẫu nhiên mà các cương lĩnh chính trị của Balzac, Dostoevski,
Turgheniev, L. Tolstoi đều thường hoang tưởng hoặc sai lầm. Lênin đã
từng cho rằng Gorki không nên can dự vào công việc chính trị cũng vì
vậy, Lênin viết: “Gorki là tài năng nghệ thuật có tầm cỡ lớn, đã và sẽ
đóng góp cho phong trào vô sản toàn thế giới rất nhiều. Nhưng tại sao
Gorki lại phải đi làm chính trị để làm gì kia chứ?” (Toàn tập, T.31, t.
Nga, tr.49). Gorki nhớ lại có lần trong khi trò chuyện, Lênin nói: “Dù
sao thì công việc của anh cũng khác tôi. Tôi không có quyền hình dung
mình là thằng ngốc, còn anh thì lại phải như vậy, nếu không anh làm sao
tả được thằng ngốc là thế nào. Khác nhau ở chỗ đó” (Lênin – Về văn học
và nghệ thuật, Moskva, 1967, tr.647).
Tư
duy chính trị cũng không phải là tư duy văn nghệ. Xã hội vận động chủ
yếu theo những quy luật của kinh tế – chính trị, chứ không phải theo
tình cảm, mong ước của con người. Quản lý xã hội chỉ bằng những tư tưởng
giàu chất văn, bằng lẽ phải và tình thương thì tuy hấp dẫn đấy, nhưng
lại không tưởng, huyễn hoặc, chỉ có thể có trong thời Nghiêu Thuấn mà ai
cũng chỉ mới nghe nói, chứ chưa biết hư thực ra sao. Nghệ thuật là khát
vọng về lý tưởng. Xã hội sống bằng kinh tế, pháp luật. Kinh tế, chính
trị có những quy luật nghiệt ngã mà văn nghệ buộc phải theo nhưng không
phải bao giờ cũng đồng cảm hết. Chính trị là lợi ích của số đông, văn
nghệ là tiếng nói chia sẻ, an ủi, động viên đến với riêng từng người.
Fidel Castro có lần tâm sự với G. Garcia Marquez: “Nếu được hóa kiếp lại
tôi sẽ làm nhà văn”. Câu nói của nhà chính trị nổi tiếng ấy, nghĩ kỹ,
thấy thật sâu sắc.
Nhà
chính trị thường chú ý đến cái tất yếu, đến logic, cái cần phải làm, còn
nghệ sĩ lại quan tâm đến những gì xảy ra đằng sau cái logic ấy. Đối với
nhà văn, quan trọng không phải chỉ “mặt trước của tấm huân chương” mà
còn cả mặt sau của nó, quan trọng không phải chỉ là chiến thắng mà còn
cả cái giá của những mất mát hy sinh để giành được nó. Nghệ sĩ thực sự
thường không phải chỉ hồ hởi, kiêu hãnh nhìn những đội quân rầm rập diễu
hành qua quảng trường mà còn nhìn thấy cả giọt nước mắt của người mẹ
mất con, người thương binh trong giờ phút vui chung ấy.
Đó là
nỗi khổ của nghệ sĩ. Nhưng đó cũng là nghĩa vụ xã hội, là món nợ đời
của nghệ thuật. Cuộc sống lúc nào cũng như vui vẻ, ồ ạt lao về phía
trước, còn nghệ thuật lại là phút dừng. Dừng không phải để kéo lại, mà
để ngẫm nghĩ. Nhà văn lớn thường là những tấm lòng đau đời lớn cũng vì
vậy. Thơ văn hay nhắc đến quá khứ cũng vì vậy. “Trăm năm trong cõi người
ta” cái ý thức về “Thời gian của người” ấy là một cách cảm nhận cuộc
đời rất riêng của nghệ thuật, nhưng đồng thời cũng phải đến một lúc nào
đó người viết mới chiêm nghiệm được, thấm thía sâu sắc.
Trong
ý nghĩ ấy, ý thức chính trị và ý thức văn học là những người bạn đồng
hành trên con đường nhân loại đi tìm hạnh phúc. Tiếng nói chính trị và
tiếng nói nghệ thuật bổ sung cho nhau, làm thăng bằng đời sống tinh thần
của xã hội. Trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như chiến tranh,
cách mạng, ý thức chính trị trở thành nội dung cơ bản của ý thức xã hội
bao trùm lên các ý thức khác. Lúc đó tiếng nói văn nghệ trùng với tiếng
nói chính trị. Nhưng còn trong những ngày bình thường, chính trị và văn
học không hát cùng một bè trong bản đồng ca một giọng mà mỗi thứ đảm
nhận một bè khác nhau trong bản giao hưởng phức điệu thống nhất và đa
dạng của cuộc sống.
Đó là
lẽ bình thường của mọi sự tồn tại hiện thực, khác đi sẽ không phải là
cuộc sống. Đó cũng là biện chứng của sự phát triển lịch sử, bởi vì mỗi
bước đi lên bao giờ cũng kèm theo bao nhiêu đau đớn, mỗi tiến bộ xã hội
bao giờ cũng kèm theo sự đánh mất một cái gì đó vĩnh viễn không bao giờ
lấy lại được. Cái logic nghiệt ngã ấy của lịch sử, phép màu nhiệm khủng
khiếp ấy của “miếng da lừa” ngày nay đang hiện ra trước mắt chúng ta với
rất nhiều vẻ, nhiều dạng khác nhau. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
làm cho xã hội giàu có lên nhưng đồng thời cũng đẻ ra biết bao nhiêu
hậu quả khôn lường, trong đó có cả nguy cơ về sự hủy diệt của nền văn
minh nhân loại. Công cuộc khai thác thiên nhiên đem lại những nguồn lợi
khổng lồ nhưng cũng lại cướp đi của con người một trong những điều kiện
sống quan trọng nhất – môi trường tự nhiên. Sự phát triển của văn hóa
làm cho con người phong phú hơn, song đôi khi cũng vì nó mà con người
trở nên tàn nhẫn hơn, cô độc và ích kỷ hơn. Riêng ở ta hiện nay, sự bung
ra cần thiết về kinh tế, việc phá tung một cơ chế lỗi thời đang mở ra
những triển vọng một cách tốt đẹp để đất nước phát triển, nhưng đồng
thời trong quá trình này chúng ta đang chứng kiến bao nhiêu hiện tượng
đau lòng.
Văn
học không thể đứng ngoài sự tiến bộ xã hội. Nhà văn phải ủng hộ cái mới,
cái hợp lý, cái đang mở ra phía trước. Nhưng nếu chỉ viết về các quá
trình đó, chỉ say sưa với các khẩu hiệu, các chủ trương thì trong tình
hình hiện nay, văn học chưa làm đầy đủ chức năng xã hội của mình. Nếu
không phải nhà văn thì ai sẽ là người nói lên được một cách sâu sắc
những day dứt có thực của mỗi người trên con đường đi tới, những tổn
thất không gì bù đắp được về số phận, về nhân phẩm, về tinh thần mà lịch
sử, vì phải tuân theo logic khách quan, buộc lòng phải hy sinh? Logic
thì bao giờ cũng nghiệt ngã. Nhưng cuộc đời không chỉ sống bằng logic.
Vì thế mà mới sinh ra văn học nghệ thuật là sự bù đắp cho logic, làm cân
bằng cuộc sống, làm cho đời ra đời, đa dạng, nhuần nhị.
Viết
về sự phức tạp của quá trình đi lên, về cả cái được và cái mất của nó
không có nghĩa là chống lại quá trình đó. Nó chỉ làm cho mỗi bước đi tới
trở nên cân nhắc hơn, được tính toán bình tĩnh hơn, bởi vì không phải
bao giờ cũng chỉ có một con đường duy nhất đúng để đạt tới chân lý. Đồng
thời tiếng nói của nghệ thuật cho dù trong suốt hàng ngàn năm qua chưa
có khi nào – và có lẽ mãi mãi như vậy – cản được bước đi lầm lạc của
lịch sử, nhưng biết đâu vì có nó mà tổn thất bớt đi, con người được an
ủi phần nào và được chuẩn bị, được vũ trang để sẵn sàng đón nhận và hạn
chế những tai họa mới.
Có
một thời ở ta một số người cho rằng thời đại hiện nay không còn cái bi
và văn học xã hội chủ nghĩa không có vấn đề bi kịch. Đó chẳng qua chỉ là
sự cao hứng chính trị và sự nông nổi về lý luận. Lịch sử đẫm máu của
cuộc phản cách mạng ở Chile, Grenada, nạn diệt chủng ở Campuchia dưới
thời Pônpốt v.v… lẽ nào không phải là những tấn bi kịch của thời đại? Ở
nước ta, từ Cách mạng Tháng Tám, không có bi kịch trên phạm vi toàn dân
tộc, nhưng từng lúc, từng nơi, trong từng gia đình, trong cuộc đời mỗi
cá nhân lẽ nào lại không có những mất mát, oan trái, những khi lẽ phải
bị chà đạp. Viết về cái bi là một cách nhận thức đời sống trong sự trọn
vẹn, trong vẻ nhiều mặt, phức tạp của nó. Đó là một cách nghiền ngẫm về
cuộc đời, một hình thức tư duy hiện thực hết sức sâu sắc, nhân đạo và
rất riêng của nghệ thuật.
Về
một phương diện nào đó, văn học gần với đạo đức hơn chính trị nhưng văn
học cũng không phải là đạo đức. Đồng nhất văn học với đạo đức sẽ biến
văn học thành minh họa cho luân lý cũng giống như coi văn học là tuyên
truyền cho chính trị. Những hiện tượng như vậy đều đã có trong lịch sử.
Nghệ thuật không phải là đạo đức mà là sự ăn năn về đạo đức. Hiểu theo
nghĩa ấy, văn học chính là một hành động xưng tội của con người. Lịch sử
nhân loại đã biết đến hai hình thức xưng tội chủ yếu là tôn giáo và
nghệ thuật. Ở nhà thờ con người sám hối trước Chúa, Phật, trong văn học
con người xưng tội trước chính mình. Văn học là lương tâm của xã hội.
Lương tâm xã hội bị cắn rứt trong văn học, không yên, nghệ thuật như tấm
gương lớn xã hội đặt ra trước mặt, mỗi người đến tự soi mình, nhận
diện, đối thoại với chính bản thân mình, tự phán xử, kiêu hãnh với những
gì tốt đẹp có ở mình, ở cuộc đời, đồng thời cũng hổ thẹn vì những gì
trái với lương tâm, đau đớn với tội lỗi, bất công trong xã hội.
Bởi
vậy khác với chính trị và đạo đức, sức tác động mạnh mẽ của văn nghệ thể
hiện chủ yếu không phải ở chỗ nó tuyên truyền và răn dạy, mà ở khả năng
khêu gợi, đánh thức lương tri của mỗi người, kích thích quá trình tự
giáo dục ở họ. Đó là sự tác động hết sức sâu sắc, tế nhị và cũng rất kỳ
diệu mà không phải tác phẩm nghệ thuật nào cũng có thể đạt tới.
Làm
được điều này văn nghệ sẽ thực hiện một phần chức năng rất quan trọng
của mình là kích thích và bảo toàn tính tích cực xã hội của con người.
Tính tích cực này là chất men của mọi sự sáng tạo, mọi hành động cải
tạo, cách mạng, nhưng trong một hoàn cảnh nào đó nó có thể bị hao mòn,
con người trở nên đui điếc về phương diện xã hội. Lúc đó người ta không
còn coi điều gì là thiêng liêng nữa, không tin vào tương lai, không
thiết đến cả lòng tin, không muốn nói, vì nghĩ là nói cũng chẳng đi đến
đâu, chẳng để làm gì. Không khí xã hội ngưng trệ, và thường trong những
điều kiện như vậy, sự thui chột về mặt tinh thần đẩy người ta vào lối
sống tầm thường, chỉ còn biết lo kiếm tiền, làm giàu, bàng quan với tất
cả. Trong những hoàn cảnh ấy nghệ thuật phải trở thành nơi gìn giữ ngọn
lửa tính tích cực xã hội, thức tỉnh lương tâm và ý thức về công lý trong
mỗi người, và bằng cách đó tác động đến chính trị, góp phần chuẩn bị
cho xã hội đi dần tới cách mạng, như ” perextroika”, cải tổ.
Hiểu
rõ mối quan hệ giữa ý thức chính trị và ý thức nghệ thuật, nội dung đặc
trưng của mỗi loại sẽ giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn mặt khác của
mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị – đó là vấn đề văn nghệ phục vụ
một chế độ chính trị, chế độ xã hội như thế nào.
Có
nhiều cách văn nghệ phục vụ chế độ. Thông thường người ta hay nói tới
việc dùng tác phẩm nghệ thuật để tuyên truyền cho những chủ trương,
chính sách của nhà nước, phổ biến rộng rãi đường lối của Đảng. Nghệ
thuật rõ ràng không thể từ chối nhiệm vụ ấy, nhất là trong những điều
kiện đặc biệt, trong chiến tranh, cách mạng, khi tất cả nhằm vào mục
đích quan trọng nhất là sống và chiến thắng. Song từ đây cũng sẽ không
đúng nếu cho rằng nhiệm vụ của văn nghệ chủ yếu chỉ là tuyên truyền cổ
động, động viên và hễ cứ tuyên truyền hay là thành nghệ thuật.
Tác
phẩm nghệ thuật là cầu nối giữa tâm hồn này với tâm hồn khác, là hình
thức giao tiếp độc đáo của con người. Nó không xa lạ với sự truyền bá tư
tưởng nhưng đồng thời cũng không phải là thông tin và chính luận. Coi
thường đặc thù về nội dung của nghệ thuật sẽ dẫn đến đồng nhất nó với
tuyên truyền.
Ngoài
ra cũng phải nói rằng quan niệm về văn học minh họa này còn có một chỗ
dựa khác trong lý luận. Ở ta cho đến nay vẫn tồn tại dai dẳng cách hiểu
đặc trưng nghệ thuật rất cũ, xem dấu hiệu cơ bản nhất để phân biệt nghệ
thuật với khoa học là tính hình tượng. Hóa ra chính trị, khoa học, nghệ
thuật cùng nói một điều, một nội dung, khác nhau chỉ ở cách nói, ở hình
thức. Nhưng nếu như vậy thì nghệ thuật sinh ra làm gì, chẳng lẽ chỉ để
nói cho hùng hồn điều mà người ta có thể nói một cách đơn giản? Một lối
hiểu như vậy tất yếu sẽ dẫn đến chỗ biến nghệ thuật thành sự minh họa
cho các tư tưởng chính trị hay các chân lý đạo đức.
Văn
nghệ phục vụ chính trị (chế độ chính trị-xã hội) chủ yếu thông qua
khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật. Cái chính là nhà văn đứng
về phía nào, yêu và bênh vực cái gì, ghét và chống lại cái gì. Tiêu
chuẩn cơ bản để đánh giá thái độ yêu ghét ấy – tức tiêu chuẩn đánh giá
khuynh hướng tư tưởng tác phẩm – là tính chân lý (hay sai lầm) lịch sử
khách quan của chúng. Nghĩa là nhà văn chỉ được đề cao cái đáng được đề
cao hoặc lên án cái thực sự đáng bị lên án, xét từ góc độ khách quan
lịch sử, trên cơ sở lợi ích toàn dân tộc, trên cơ sở tiến bộ xã hội và
tiêu chuẩn của chủ nghĩa nhân đạo. Lối ca ngợi hay phủ nhận một chiều,
cơ hội, xu thời là nguyên nhân làm cho nhiều tác phẩm chết yểu, nhanh
chóng mất tác dụng hoặc trở nên phản tác dụng, nhanh chóng bị lãng quên
khi lịch sử sang trang hay tình hình biến đổi.
Một
trong những nhược điểm của văn nghệ ta thời gian qua là quá tập trung
vào các chủ đề chính trị theo nghĩa hẹp, tức là thiên về khai thác các
vấn đề trực tiếp liên quan đến những nhiệm vụ trước mắt, đến các công
cuộc vận động, các chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước, thậm
chí của từng ngành. Nhiều cuốn tiểu thuyết, vở kịch, bộ phim hưởng ứng
kịp thời các phong trào đó, rơi đúng vào những thời điểm cần thiết nên
đã góp phần kích thích không khí xã hội và có tiếng vang. Điều đó là
đúng, và cần.
Song
trong văn học hình như vẫn thiếu một cái gì đó, người đọc vẫn chờ đợi
một cái gì đó, cảm giác ấy là có thật và nghĩ kỹ thì cũng không phải là
không có lý. Nhiều tác phẩm thuộc loại trên đây tuy không phải là công
thức và minh họa, nhưng thiên về khẳng định một chiều, thiếu chiều sâu
của sự ngẫm nghĩ và tư tưởng cá nhân của nhà văn, mà đó lại chính là
những yêu cầu cơ bản nhất của sáng tác. Nghệ thuật đâu phải đơn thuần là
phản ánh hiện thực; nó là sự nghiền ngẫm về hiện thực, về đời sống con
người. Nghiền ngẫm là xem xét, đánh giá các sự kiện, hành động trong
nhiều chiều khác nhau, trong mối liên hệ với quá khứ và tương lai, không
chỉ từ góc độ của trước mắt mà còn của lâu dài, không phải về phương
diện chính trị mà còn về phương diện nhân sinh, đạo đức, thẩm mỹ. Nghiền
ngẫm như vậy tất yếu sẽ dẫn tới dự báo.
Thông
thường nói đến khả năng dự báo của văn học người ta hay nhắc ngay đến
Bài ca chim báo bão của Gorki, đến việc phát hiện và cổ vũ những mầm non
của cái mới, của tương lai. Song đó mới chỉ là một mặt. Bởi vì tương
lai không phải là độc quyền của hạnh phúc. Tương lai là mái nhà chung
của cả niềm vui và bất hạnh, là hy vọng của cả cái thiện và cái ác.
Trong cuộc chạy đua ồ ạt của nhân loại về tương lai nhà văn không được
quyền chỉ vỗ tay hoan hô mà còn phải cảnh tỉnh, không có quyền chỉ chào
đón những người anh hùng đang có đầy triển vọng mà còn phải nhìn thấy
trước và báo động về nguy cơ của cái xấu đang về đích trước hay cùng một
lúc với cái đẹp. Đó là nghĩa vụ xã hội độc đáo của văn học. Khả năng
cảm nhận cuộc sống theo cách đó, khả năng dự cảm dấu hiệu của hạnh phúc
và tai họa là phẩm chất của thiên tài. Pie Bezukhov của L. Tolstoi,
Nilovna của M. Gorki, Oneghin của Puskin, Rastignac của Balzac,
Rasconicov của Dostoevski tuy rất khác nhau nhưng đều là những nhân vật
dự báo rất điển hình.
Do
quá tập trung vào các chủ đề chính trị theo nghĩa hẹp, từ nhiều năm nay
văn nghệ chúng ta hình như mất thói quen tư duy những chủ đề chính trị
theo nghĩa rộng ở một tầm cỡ rộng lớn và sâu xa hơn. Đó là các vấn đề
như chiến tranh và hòa bình, lịch sử dân tộc, bước đi đã qua và con
đường sắp tới của xã hội ta, quan hệ con người trong thời kỳ quá độ,
trong thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của tiêu dùng, vấn đề bảo vệ thiên
nhiên v.v… Các vấn đề này có ý nghĩa chính trị hết sức rộng lớn, vì vậy
nếu viết được một cách sâu sắc, tác phẩm nghệ thuật sẽ có chất chính trị
thực sự. Cái khó là ở đây đòi hỏi nhà văn phải có được hệ thống tư
tưởng lý luận đúng đắn và triệt để, có cách nghĩ độc lập và dám xả thân
vì tư tưởng. Đó sẽ là những nhà văn kiêm nhà tư tưởng, cần cho cả văn
học nghệ thuật và cho chính trị. Không biết bao giờ chúng ta mới có được
những nhà văn như vậy.
Cảm
giác về một cái gì đó thiếu hụt trong văn học hiện đại của chúng ta sẽ
trở nên hết sức rõ rệt nếu chúng ta lưu ý đến vị trí của chủ đề đạo đức
và vấn đề mô tả số phận con người. Chúng ta quên mất rằng văn nghệ phục
vụ tốt nhất chế độ (chính trị) không phải chỉ (và có lẽ cũng chủ yếu
không phải chỉ) ở chỗ truyền bá tư tưởng chính trị của nó mà quan trọng
hơn là xây dựng con người, hình thành thế giới tinh thần và đạo đức của
con người. Chúng ta cũng thường nói đến con người và đạo đức, nhưng lại
chỉ chú ý trước hết đến phần lập trường quan điểm, đến khía cạnh chính
trị của đạo đức, ít quan tâm đến mặt nhân bản của nó.
Song
kinh nghiệm của thời kỳ xây dựng xã hội mới ở Liên Xô cũng như ở ta đều
cho thấy rằng người cộng sản trước hết phải là người tử tế lương thiện.
Trong xã hội ta, có chính kiến, có chỗ đứng trong tổ chức, đoàn thể
không khó bằng có nhân cách. Điều đó ai cũng thấy rõ và càng ngày càng
rõ. Người cộng sản mà không tử tế thì chính anh ta sẽ phá hoại ngay tập
thể, tổ chức và chế độ của mình trước khi anh ta có thể tiêu diệt được
giai cấp tư sản và chế độ bóc lột. Bởi vậy việc xây dựng đạo đức nhân
bản, đạo đức văn hóa là hết sức cấp bách, hết sức cần thiết. Trẻ em của
chúng ta được dạy quá nhiều về lòng yêu nước, yêu nhân dân, nhưng lại ít
được giáo dục tình yêu thiên nhiên, cây cỏ, súc vật, yêu cha mẹ, người
thân. Các em hát quá nhiều những bài ca với nội dung chính trị, đoàn kết
quốc tế trừu tượng nhưng lại ít được dạy cho thương yêu anh em, bạn bè
xung quanh, một cách cụ thể hơn, nhân ái hơn.
Văn
nghệ phải trở thành lương tâm của xã hội. Giáo dục lương tâm là mảnh đất
riêng của văn học nghệ thuật, là sở trường của nó, là đóng góp độc đáo
của nó đối với xã hội. Một xã hội nhân đạo và cởi mở sẽ đẻ ra những tư
tưởng chính trị lành mạnh, hiện thực.
Nói
tóm lại, chất chính trị cao nhất của văn nghệ nằm ngay trong bản thân
nó. Làm thật tốt nghĩa là làm chính trị. Nói như Puskin. “Mục đích của
thơ ca – đó là chính thơ ca…”
No comments:
Post a Comment