Thursday, August 8, 2013

Thông điệp gửi bạn ở xa

( 4 giờ sáng từ một ngày Hà nội bão)


Ngày nay, trong nhiều phần của thế giới, chúng ta đang đối diện một sự khủng hoảng về đạo đức. Trong khoa học và kỷ thuật, không có căn bản trong việc phân ranh giới giữa đạo đức và vô đạo đức. Những gì vật chất chỉ là vật chất, và tiền bạc chỉ là tiền bạc. Không có căn bản cho đúng và sai ngoại trừ người ta thực hiện một sự nối kết với những kinh nghiệm nội tại của chúng sinh.




Những cảm nhận về đớn đau và hạnh phúc, khao khát cho hòa bình và vui sướng, và mong ước vượt thắng khổ đau là thông thường trong con người và trong con vật. 

Nhưng con người chúng ta có sự thông minh.  Chúng ta cũng có những năng lực to lớn hơn của trí nhớ và viễn kiến về những sự kiện.  Trí nhớ, cái thấy và những dự đoán của chúng ta cho những tương lai xa xôi đôi khi làm cho chúng ta băn khoăn và sợ hãi, nghi ngờ và lo lắng ngay cả khi mọi thứ là tốt đẹp.

Vì chúng ta có trí thông minh và năng lực suy nghĩ to lớn hơn những động vật có vú khác, chúng ta dễ tổn thương đối với những trải nghiệm khổ đau tinh thần hơn chúng.  Vì những khổ đau và băn khoăn tinh thần là một sản phẩm của óc thông minh, nên phương cách duy nhất để giải quyết chúng là qua việc sử dụng trí thông minh của chúng ta.  Không có phương pháp nào khác.  Ngay những người có nhiều tài nguyên vật chất vô kể và tùy ý sử dụng cũng có những vấn nạn và khổ đau.  Điều này cho thấy một cách rõ ràng rằng khổ đau tinh thần là những sản phẩm của sự thông  minh không thể giải quyết được bằng những phương tiện vật chất.

Có một nhân tố quan trọng khác nữa.  những kinh nghiệm tinh thần là áp đảo so với những trải nghiệm thân thể.  Trong khi chúng ta làm mọi nổ lực để bảo đảm sự phát triển vật chất, thì điều quan trọng là nhìn vào bên trong.  Chúng ta không được quên lãng những giá trị nội tại.

Ngày nay, trong nhiều phần của thế giới, chúng ta đang đối diện một sự khủng hoảng về đạo đức.  Trong khoa học và kỷ thuật, không có căn bản trong việc phân ranh giới giữa đạo đức và vô đạo đức.  Những gì vật chất chỉ là vật chất, và tiền bạc chỉ là tiền bạc. Không có căn bản cho đúng và sai

Trong thế giới ngày nay, chúng ta thường chỉ cho điều quan trọng là những thứ vật chất. Từ quan điểm ấy, cho đến khi mà chúng ta kiếm thêm được tiền của hay quyền lực, mọi thứ là được cho là đúng.  Những vấn đề khác không được quan tâm, và mọi thứ căn cứ trên sự thỏa mãn của lòng tham.

Mỗi chúng ta là một bộ phận của nhân loại, và mỗi chúng ta có trách nhiệm để cải thiện nhân loại và để đem thêm hạnh phúc nhằm để làm cho nhân loại hòa bình hơn, thân hữu hơn, và từ bi hơn.  Do thế, nếu một cá nhân thực tập từ bi và tha thứ một cách chân thành và thường xuyên, bất cứ nơi nào người ấy sống, nơi ấy sẽ phát sinh một không khí tích cực.  Đấy là một cách để cống hiến cho sự cải thiện nhân loại. 

Hiện nay một số người vốn không sinh ra như một Phật tử, lần đầu tiên đón nhận sự hấp dẫn trong Đạo Phật, họ tiếp thu giáo huấn của Đức Phật với sự nhiệt tình, chân thành  và cảm kích.  .  Vì thế thật quan trọng .  Đây là chân lý đặc biệt của Phật Pháp bởi vì nhằm để chuyển hóa cảm xúc của chúng ta, chúng ta phải sử dụng trí thông minh của chúng ta trong một cung cách tối đa như có thể.  Để phát triển niềm tin tâm linh, chúng ta phải dùng sự thông tuệ của mình.  Tôi nghĩ rằng đấy là đặc biệt của Đạo Phật

Do thế, phương cách của Đạo Phật để chuyển hóa cảm xúc của chúng ta hoạt động không phải qua tin tưởng hay nguyện cầu mà qua việc sử dụng tối đa óc thông minh và lý trí. 

 có ba cấp độ của việc này.  Trên một cấp độ, thật khó khăn để sử dụng lý trí của chúng ta, và chúng ta phải dựa trên từ ngữ của người nào đấy.  Nhưng ở đấy cũng thế, chúng ta phải khảo sát - kể cả chính Đức Phật - là đáng tin cậy hay không.  Vì vậy, đối với hành giả Phật Giáo nghiên cứu là rất quan trọng.

Đức Phật cho chúng ta tự do để đặt câu hỏi về những lời của Ngài.  Đặt vấn đề là rất quan trọng.  Không có đặt vấn đề, chúng ta không thể có những câu trả lời thích đáng.  Không có hoài nghi, không có ngờ vực, không có khảo sát, chúng ta sẽ không có những câu trả lời toại nguyện.  Do vậy, trong truyền thống Đạo Phật, thông tuệ được sử dụng đến sự mở rộng tới mức tối đa của nó và nghiên cứu học hỏi là quan yếu. 

Khi  nói về toàn thiện, trước tiên nhất, phải thiết lập ý nghĩa của từ ngữ "toàn thiện" hay "rốt ráo", có nghĩa là "vượt khỏi".  "Vượt khỏi " ở đây liên hệ đến vị trí hay con đường giác ngộ.  Và vị trí hay con đường ấy được gọi là "vượt khỏi " với sự liên hệ đến vị trí mà chúng ta thường hiện hữu, trong hình thể thông thường của chúng ta.  Trong phạm vi này, khi nói về Bốn Chân Lý Cao Quý, hai chân lý đầu, đấy là, chân lý về khổ đau và cội nguồn của khổ đau, là trên phía thông thường này, và hai chân lý kia, con đường chân thật và sự chấm dứt chân thật, là những con đường vượt khỏi.  Ở đây, khi sử dụng từ ngữ "vượt khỏi ", chúng ta liên hệ đến những loại giác ngộ chân thật.  Từ ngữ liên hệ để có sự vượt khỏi thế giới sinh tử, vòng luân hồi, và do thế, khi chúng ta nói về từ ngữ "vượt khỏi", nó có thể liên hệ đến sự tận diệt những cảm xúc phiền não, và khổ đau, và vì thế, là việc đạt đến giải thoát.  Cũng thế, có một hình thức giác ngộ rộng lớn hơn mà đấy là Quả Phật.  Ở đây, chúng ta chủ yếu nói về ý nghĩa ấy khi chúng ta nói về "vượt khỏi".

giác ngộ có nghĩa là tiếp thu những phẩm chất tích cực cần thiết toàn phần của chúng.  Do vậy, từ ngữ "giác ngộ" trong phạm vi này có hai ý nghĩa: nó có thể liên hệ đến con đường đưa đến thể trạng kết quả của Quả Phật, hay nó có thể liên hệ thể trạng kết quả của chính Quả Phật.  Nên nó liên hệ cả con đường và thành quả.  .

Khi chúng ta hướng để đạt tới đại giác ngộ, hay Quả Phật, con đường mà chúng ta cần để trau dồi là lòng vị tha, căn cứ trên nguyện ước để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. 

Một  khía cạnh khác nữa của đại giác ngộ hay Phật Quả là đấy là một thể trạng tự tại khỏi tất cả những sự tạo tác. Nó có thể có ý nghĩa rằng khi chúng ta đạt đến thể trạng Phật Quả, nó không có những loại đa dạng của cấu uế, nhiễm ô, khổ đau và những cảm xúc phiền não.  Giác ngộ như vậy  không chỉ tự tại khỏi những loại việc này mà cũng tự do khỏi những hiện hữu nhị nguyên đa dạng.  Khi chúng ta đạt đến một thể trạng như vậy, tháo gở mọi xiềng xích của tất cả  mọi tạo tác trong hình thức của nhị nguyên chủ thể - khách thể và những hiện hữu của thế gian tục đế.

Chúng ta không tự do bởi vì sự nhị nguyên chủ thể - khách thể hay những hiện tướng thế gian của tục đế

 chúng ta tự do bởi vì những sự tạo tác này chấm dứt hiện hữu khi chúng ta đạt đến thể trạng giác ngộ.  Trong một thể trạng như thế, tâm giác ngộ hay toàn giác như thế hoàn toàn hòa nhập với tính không.  Đối với một tâm như thế, không có sự tạo tác tồn tại

Một là sau khi đạt đến một thể trạng giác ngộ như thế, hành giả có năng lực tự tại và không mệt mõi để hoàn thành nguyện ước của chúng sinh.  Loại khả  năng ấy là một kết quả của việc phát triển động cơ vị tha để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh khi chúng ta ở trong giai tầng tu tập.

Một khía cạnh khác nguyên nhân cho việc đạt đến một thể trạng như vậy là sự phát triển tuệ trí thực chứng tính không.  Thể trạng toàn giác là một sản phẩm của những nguyên nhân và nhân tố.  Nó là một hiện tượng nhân duyên.  Vì thể trạng toàn giác là một sản phẩm của những nguyên nhân và nhân tố, nó ở trong tác động của luật nhân quả.  Do vậy, hệ thống này con đường của hiệu lực và con đường của thành quả, là ở trong phạm vi của lý duyên khởi.  Những khổ đau mà chúng ta gặp phải sinh khởi từ những nguyên nhân và điều kiện tương ứng.  Tương tự thế, hạnh phúc mà chúng ta trải nghiệm cũng tùy thuộc trên những nhân duyên tương hợp.

Hình thức cao nhất của hạnh phúc, trong thể trạng giác ngộ, cũng sinh khởi từ nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên).  Những thứ này xảy ra trong phạm vi nhân quả.  Bất cứ loại kết quả hay hoa trái nào xảy ra bởi nhân duyên trên những nguyên nhân và điều kiện ấy có khả năng để sản sinh loại kết quả đặc thù ấy. 

 trái cây ngọt ngào có thể sản sinh từ những hạt giống ngọt ngào.  thể trạng Quả Phật hay giác ngộ phải đến từ những khả năng hay tiềm năng mà chúng ta có. 

Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thân và pháp thân.  Sắc thân Phật là thân tự tại và dễ dàng xuất  hiện trước chúng sinh để cứu độ họ.  Pháp thân như chúng ta đã thảo luận phía trước, là một thể trạng tự do khỏi tất cả những loại tạo tác.  Nguyên nhân của việc đạt đến sắc thân là việc phát triển và thực hành tâm giác ngộ (bodhichitta), và nguyên nhân của việc thân chứng pháp thân là tuệ trí thực chứng tính không.

Nếu chúng ta cố gắng để đơn giản hóa ý nghĩa của tuệ trí thực chứng tính không và của tâm giác ngộ hay tâm bồ đề (bodhicitta), chúng ta có thể nói rằng tuệ trí thực chứng tính không là hình thức tuyệt hảo nhất của thông minh, tột đỉnh của sự phát triển của nó, và tâm giác ngộ hay tâm bồ đề là hình thức tuyệt vời nhất của cảm xúc loài người. 

Chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã có sẳn căn bản của hai tính chất  này.  Chúng ta có những cảm xúc, khả năng để phán xét, và thông minh.  Do vậy, khi chúng ta phác thảo đại cương những giáo huấn của Đức Phật, chúng ta cũng làm thế với ba điểm chính:  Chúng ta có sự trình bày về những phẩm chất nền tảng mà chúng ta liên hệ đến quy luật tự nhiên.  Chúng ta có trình độ của con đường nơi chúng ta dấn thân vào những sự thực hành lộ trình này phù hợp đến quy luật tự nhiên.  Và qua những sự thực hành này, chúng ta hiện thực thành quả trong hình thức giác ngộ; điều này cũng phù hợp với con đường.  Do vậy, chúng ta sử dụng thuật ngữ "toàn thiện" hay "rốt ráo" trong việc liên hệ đến những sự thực hành ấy trên tầng bậc tu tập rèn  luyện tác động bởi tâm giác ngộ và tuệ trí thực chứng tính không.

Có thể có hai loại tuệ trí thực chứng tính không. 

 Loại thứ nhất liên hệ đến việc không thể thấy tính không một cách trực tiếp nhưng nhận ra tính không qua một loại ý niệm chung

Loại thứ hai là nhận thức hay thấy rõ và không lệ thuộc qua một giai đoạn trung gian hay sự hình dung  chung chung (của phân tích). 

 Vì thế, khi chúng ta nói về những sự thực hành được tác động bởi tuệ trí và phương pháp, nó liên hệ đến những loại tuệ trí trực trực tiếp thấy rõ tính không. 

Khi chúng ta nói về nhu cầu phát triển tâm giác ngộ (bodhicitta), là điều mà tâm thức yêu mến ấp ủ lợi ích của những chúng sinh khác,  chúng ta thấy rằng có thể phát triển một loại tâm thức như vậy bởi vì trong chúng ta, chúng ta có thái độ tự yêu mến này.  Chúng ta có thể phát triển một thái độ như vậy bởi vì chúng ta có một cảm giác gần gũi đến chính chúng ta.  Chúng ta có một lòng tự ái, và căn cứ trên điều này, chúng ta phát triển một loại thái độ tự yêu mến.

Tương tự thế, nếu chúng ta phát triển một cảm giác gần gũi đến những người khác, những chúng sinh khác, chúng ta có thể sử dụng điều ấy để phát triển một nguyện ước mà nguyện ước ấy là yêu mến lợi ích của những người khác, của những chúng sinh khác.  Vì vậy, đầu tiên, nên có một loại tự ái, một tâm thức yêu mến đối với chính chúng ta, bởi vì trong sự vắng bóng của việc có thể nhận thức về chính mình, thì không thể, hay khó khăn để phát triển một tâm tư yêu mến lợi ích của những chúng sinh khác.  Một cách căn bản, tất cả chúng ta có một cảm giác gần gũi với chính mình.  Ngay cả trong những trường hợp tự thù ghét mình biểu lộ ra bên ngoài, thì một loại thái độ tự yêu mến nào đấy vẫn chất chứa sâu xa bên trong chúng ta.

Từ sự yêu mến chính mình mà con người có thể dần dần mở rộng một thái độ tương tự đến những người khác.  Ngay cả thú vật cũng có một lòng vị tha hạn chế, đặc biệt những con thú mà con cái của chúng lệ thuộc vào chúng trong một thời gian.  Một cách tự nhiên, sẽ có một sự ràng buộc về tình thương đặc biệt.  Vì thế tình thương này, cảm giác tự nhiên về cảm kích, đến từ một nhu cầu sinh học bởi vì cấu trúc, hình thành cơ thể, khiến chúng ta phải tùy thuộc vào tình thương.  Nhằm để sống còn, chúng ta cần chăm sóc nhau.  Chúng ta đã có hạt giống của từ ái và bi mẫn hay tình cảm cho kẻ khác bởi vì chúng ta có tình thương cho chính chúng ta.  Đấy là hạt giống.

Làm thế nào để phát triển lòng vị tha vô hạn?  Dường như là có thể phát triển lòng vị tha vô hạn qua tuệ trí và óc thông minh. 

khi phát triển từ ái và bi mẫn cho người khác, chúng ta có thể phát triển sự toại nguyện và can đảm sâu xa trong tinh thần.  Như một kết quả , chính chúng ta những hành giả được  lợi lạc.  Chúng ta sẽ ít sợ hãi hơn, nhiều năng lực ý chí hơn. Nhiều tự tin hơn.  Một cách tự động, chúng ta trở nên tĩnh lặng tinh thần hơn. 

thật sự là ích kỷ một cách chân thành nếu luôn luôn nghĩ về người khác."  Nhiều sự khó khăn và rắc rối của chúng ta, tôi nghĩ là, liên hệ đến sự phóng chiếu tinh thần hay vọng tưởng của chúng ta.  Nếu thái độ của ai đấy là đúng đắn, ngay cả khi bị bao quanh bởi môi trường không thân thiện, người ấy vẫn có thể an tịnh và vui vẻ. 

Liên quan đến việc thực hành ban cho và rộng lượng, có ba cấp độ của việc ban cho, được quyết định bởi phầm chất của nó. 

Thứ nhất được gọi là "ban cho những phương tiện vật chất" hay tài thí.

Thứ hai được gọi là "ban cho sự không sợ hãi" hay vô úy thí.

Thứ ba được gọi là "ban cho những lời dạy của Đức Phật " hay Pháp thí.

.

Với việc quan tâm đến thực hành kiên trì (nhẫn nhục ba la mật),), có ba loại. 

Thứ nhất là "kiên trì để có thể chịu đựng những thử thách khó khăn và khổ đau."

Thứ hai là "kiên trì tự nguyện đón nhận những khổ đau và thử thách." 

Và thứ ba là "kiên trì phát triển sự xác định đối với những thực hành Phật Pháp,"[3] là những thứ liên hệ đến thiền tập về Tính Không. sự tập trung liên hệ đến sự thực tập về khái niệm Tính Không.

Trong việc quan tâm đến tuệ trí (bát nhã ba la mật), chúng ta có nói có hai loại tuệ trí chính yếu: 

 Một là "tuệ trí thực chứng những hiện tượng quy ước thế gian (tục đế),"  

Hai là "tuệ trí thực chứng thực tại tối hậu, sự thật căn bản (chân đế)" 

Sự thực hành sáu toàn thiện có thể tóm tắt dưới hai điều:

 - Phương pháp (cho việc tích lũy phước đức

  - Tuệ trí (cho việc tích tập tuệ giác).  

Sự phân chia lộ trình thành phương pháp và tuệ trí liên hệ đến thực tại căn bản của đối tượng bởi vì trong quy luật của tự nhiên, chúng ta thấy hai đặc trưng của các hiện tượng.  Một là những hiện tượng quy ước thế gian, và thứ kia là thực tại tối hậu của những hiện tượng đó. 

 Chúng ta nói về hai sự thật, sự thật quy ước (tục đế) và sự thật tối hậu (chân đế).  Để có một sự thấu hiểu thích đáng về hai sự thật này, điều quan trọng là phải hiểu sự bất tương xứng giữa những hiện tướng và thực tại.

.  Do thế khi chúng ta định tiếp nhận bất cứ một tiến trình học hỏi nào, những gì chúng ta cố gắng để làm là để giảm thiểu sự bất tương xứng giữa hiện tướng và thực tại.

Chúng ta cố gắng để biết thực tại qua học tập, đặc biệt qua năng lực phân tích, kể cả thẩm nghiệm.  Chúng ta không hài lòng với những hiện tướng.  Nghiên cứu học tập và khảo sát giúp để giảm thiểu khoảng cách giữa những hiện tướng và thực tại. 

Khái niệm về hai sự thật là một sự  hổ trợ vô biên trong việc giảm thiểu khoảng cách này. 

Do đó là tại sao khái niệm về tính không là rất liên quan đến những kinh nghiệm hàng ngày.

 Nếu những khái niệm này chỉ duy trì trong cấp độ tri thức trí óc, như những thông tin đơn thuần, chúng ta sẽ chỉ có những ảnh hưởng nhỏ nhoi.

 Phương pháp và lựa chọn một lộ trình liên hệ và thích hợp với xu hướng tinh thần của từng hành giả để phát triển tâm giác ngộ và tuệ trí thực chứng tính không

Một số người có ấn tượng rằng Tiểu Thừa, Đại Thừa, và Kim Cương Thừa là những Thừa  hay cổ xe khác nhau, và hoàn toàn độc lập với nhau.  Điều đó hoàn toàn sai lầm.

Nhằm để thực hành Bồ Tát Thừa, cũng gọi là Đại Thừa, nền tảng của sự thực tập căn cứ trên giáo huấn Bốn Chân Lý Cao Quý và Tám Thánh Đạo.   Trên nền tảng ấy, sự thực hành bồ tát được xây dựng.  Do vậy, trong sự thiếu vắng những sự thực tập nền tảng được dạy trong Tiểu Thừa hay Thượng Tọa bộ, thì không thể kiến thiết những sự thực hành Đại Thừa.  Trong sự vắng bóng của những sự thực hành Đại Thừa Hiển Giáo, thì không thể tiến hành việc thực hành Đại Thừa Mật Giáo.  Trình độ tâm linh cao hơn được xây dựng trên nền tảng của những sự thực hành trước.

Trong truyền thống Ki Tô Giáo, Thiên Chúa Ba Ngôi đôi khi được nói là tương tự với khái niệm của Phật Giáo về Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo hay với ba thân: Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân.  Chúng ta có thể nhận ra những tương đồng nào đấy.  Không hề gì.

giải thoát cũng là một kết quả của nhân quả, Điều xấu có thể trở thành điều tốt bởi vì chúng ta có thể chấm dứt sự tương tục của điều xấu.  Tâm thức, tâm vi tế, là không có bắt đầu. 

 vòng luân hồi là sự tương tục của mật tông và niết bàn là một tantra theo sau.  Khi chúng ta nói về vòng luân hồi hay niết bàn, nó phải được giải thích trong sự liên kết với sự tương tục của tantra, đấy là, sự tương tục của tâm thức.  Nhưng cho đến khi mà có một sự tương tục của tâm thức và những cảm xúc bất tịnh và phiền não vẫn còn thì đấy là sự luân hồi.  Khi tất cả những cảm xúc tiêu cực và phiền não - qua những sự đối trị của chúng - được tiêu trừ, tâm thức ấy được nói là ở trong thể trạng niết bàn.

khi chúng ta nói về niết bàn, chúng ta liên hệ đến thể trạng tối hậu, thực tại tối hậu của tâm thức, khi tâm thức được hoàn toàn tịnh hóa khỏi những cảm xúc phiền não.

Hầu hết mọi người yêu mến bè bạn.  Nếu chúng ta có bạn bè, những người bạn chân thành, với họ chúng ta có thể trau đổi những nụ cười và những kinh nghiệm khác nhau với lòng tin, chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn, tĩnh lặng hơn. 

Nếu chúng ta không tin tưởng mọi người, chúng ta cảm thấy cô đơn, và có một cảm giác không an toàn.  .

Bạn bè, thân hữu chân thành, phải hành động nhiều nhiều với trái tim nồng ấm, không phải tiền bạc hay quyền lực. 

Khi chúng ta đạt được sự giàu sang, quyền thế chính trị, hay danh thơm, chúng ta có thể tìm thấy bạn bè của một loại khác - nhưng những người ấy không nhất thiết là những bằng hữu chân thành. 

Một người bạn chân thành xem chúng ta chỉ như một con người khác, như một người anh chị em, và biểu lộ tình cảm trên trình độ ấy, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trong một vị thế cao hay thấp.  Đấy là một người bạn chân thành.

Nói chung, khi chúng ta đòi hỏi tri thức, có ba trình độ của tiến trình: nghe (văn), nghĩ (tư), rồi thì thiền tập (tu).  Do vậy, chỉ nghe và kiến thức có được chỉ từ nghe mà thôi thì rất hời hợt.  Chúng ta phải nghĩ về chính mình và nếu có thể, thẩm nghiệm, thực hiện những khảo sát xa hơn, phân tích xa hơn.  Trong cách ấy, chúng ta đạt được một sự tĩnh thức sâu hơn.  Rồi thì tri thức của chúng ta sẽ hợp lý hơn, và cuối cùng có thể chuyển hóa vào trong hành động. .

Nghiệp báo không có nghĩa là "tiền định".  Bằng việc tùy thuộc trên những trình độ khác nhau của các hành vi, chúng ta có thể thay đổi tiến trình trải nghiệm của mình trong đời sống..  Mặc dù kết quả của một hành vi nào đấy đã được lên chương trình, nếu một hành động nào đấy mạnh mẽ hơn đến, các kết quả sẽ thay đổi.


 Để gửi riêng bạn quý CP- Lược  trích theo cảm hứng từ một trươc tác  của Đức Đạt Lai Lạt Ma) 

1 comment:

Unknown said...

Merci mon cher! Tôi vừa đọc xong bài viết này.Tôi cũng có một tủ sách cá nhân ( sách tuyển chọn) về
Phật giáo và Đạo giáo. Tư tưởng nhà Phật cùng Lão-Trang vẫn là cặp cánh giúp tôi bay vào cõi
tâm linh và sáng tạo; cho dù tôi vẫn theo thói quen đi bộ hay lái xe trên mặt đất mỗi ngày! C.P.