Ngày
nay, trong nhiều phần của thế giới, chúng ta đang đối diện một sự khủng hoảng
về đạo đức. Trong khoa học và kỷ thuật, không có căn bản trong việc phân ranh
giới giữa đạo đức và vô đạo đức. Những gì vật chất chỉ là vật chất, và tiền bạc
chỉ là tiền bạc. Không có căn bản cho đúng và sai ngoại trừ người ta thực hiện
một sự nối kết với những kinh nghiệm nội tại của chúng sinh.
Những
cảm nhận về đớn đau và hạnh phúc, khao khát cho hòa bình và vui sướng, và mong
ước vượt thắng khổ đau là thông thường trong con người và trong con vật.
Nhưng
con người chúng ta có sự thông minh. Chúng ta cũng có những năng lực to
lớn hơn của trí nhớ và viễn kiến về những sự kiện. Trí nhớ, cái thấy và
những dự đoán của chúng ta cho những tương lai xa xôi đôi khi làm cho chúng ta
băn khoăn và sợ hãi, nghi ngờ và lo lắng ngay cả khi mọi thứ là tốt đẹp.
Vì
chúng ta có trí thông minh và năng lực suy nghĩ to lớn hơn những động vật có vú
khác, chúng ta dễ tổn thương đối với những trải nghiệm khổ đau tinh thần hơn
chúng. Vì những khổ đau và băn khoăn tinh thần là một sản phẩm của óc
thông minh, nên phương cách duy nhất để giải quyết chúng là qua việc sử dụng
trí thông minh của chúng ta. Không có phương pháp nào khác. Ngay
những người có nhiều tài nguyên vật chất vô kể và tùy ý sử dụng cũng có những
vấn nạn và khổ đau. Điều này cho thấy một cách rõ ràng rằng khổ đau tinh
thần là những sản phẩm của sự thông minh không thể giải quyết được bằng
những phương tiện vật chất.
Có
một nhân tố quan trọng khác nữa. những kinh nghiệm tinh thần là áp đảo so
với những trải nghiệm thân thể. Trong khi chúng ta làm mọi nổ lực để bảo
đảm sự phát triển vật chất, thì điều quan trọng là nhìn vào bên trong.
Chúng ta không được quên lãng những giá trị nội tại.
Ngày
nay, trong nhiều phần của thế giới, chúng ta đang đối diện một sự khủng hoảng
về đạo đức. Trong khoa học và kỷ thuật, không có căn bản trong việc phân
ranh giới giữa đạo đức và vô đạo đức. Những gì vật chất chỉ là vật chất,
và tiền bạc chỉ là tiền bạc. Không có căn bản cho đúng và sai
Trong
thế giới ngày nay, chúng ta thường chỉ cho điều quan trọng là những thứ vật
chất. Từ quan điểm ấy, cho đến khi mà chúng ta kiếm thêm được tiền của hay
quyền lực, mọi thứ là được cho là đúng. Những vấn đề khác không được quan
tâm, và mọi thứ căn cứ trên sự thỏa mãn của lòng tham.
Mỗi
chúng ta là một bộ phận của nhân loại, và mỗi chúng ta có trách nhiệm để cải
thiện nhân loại và để đem thêm hạnh phúc nhằm để làm cho nhân loại hòa bình
hơn, thân hữu hơn, và từ bi hơn. Do thế, nếu một cá nhân thực tập từ bi
và tha thứ một cách chân thành và thường xuyên, bất cứ nơi nào người ấy sống,
nơi ấy sẽ phát sinh một không khí tích cực. Đấy là một cách để cống hiến
cho sự cải thiện nhân loại.
Hiện
nay một số người vốn không sinh ra như một Phật tử, lần đầu tiên đón nhận sự
hấp dẫn trong Đạo Phật, họ tiếp thu giáo huấn của Đức Phật với sự nhiệt tình, chân
thành và cảm kích. . Vì thế
thật quan trọng . Đây là chân lý đặc biệt của Phật Pháp bởi vì nhằm để
chuyển hóa cảm xúc của chúng ta, chúng ta phải sử dụng trí thông minh của chúng
ta trong một cung cách tối đa như có thể. Để phát triển niềm tin tâm
linh, chúng ta phải dùng sự thông tuệ của mình. Tôi nghĩ rằng đấy là đặc
biệt của Đạo Phật
Do
thế, phương cách của Đạo Phật để chuyển hóa cảm xúc của chúng ta hoạt động
không phải qua tin tưởng hay nguyện cầu mà qua việc sử dụng tối đa óc thông
minh và lý trí.
có ba cấp độ của việc này. Trên một cấp
độ, thật khó khăn để sử dụng lý trí của chúng ta, và chúng ta phải dựa trên từ
ngữ của người nào đấy. Nhưng ở đấy cũng thế, chúng ta phải khảo sát - kể
cả chính Đức Phật - là đáng tin cậy hay không. Vì vậy, đối với hành giả
Phật Giáo nghiên cứu là rất quan trọng.
Đức
Phật cho chúng ta tự do để đặt câu hỏi về những lời của Ngài. Đặt vấn đề
là rất quan trọng. Không có đặt vấn đề, chúng ta không thể có những câu
trả lời thích đáng. Không có hoài nghi, không có ngờ vực, không có khảo
sát, chúng ta sẽ không có những câu trả lời toại nguyện. Do vậy, trong
truyền thống Đạo Phật, thông tuệ được sử dụng đến sự mở rộng tới mức tối đa của
nó và nghiên cứu học hỏi là quan yếu.
Khi
nói về toàn thiện, trước tiên nhất, phải
thiết lập ý nghĩa của từ ngữ "toàn thiện" hay "rốt ráo", có
nghĩa là "vượt khỏi". "Vượt khỏi " ở đây liên hệ đến
vị trí hay con đường giác ngộ. Và vị trí hay con đường ấy được gọi là
"vượt khỏi " với sự liên hệ đến vị trí mà chúng ta thường hiện hữu,
trong hình thể thông thường của chúng ta. Trong phạm vi này, khi nói về
Bốn Chân Lý Cao Quý, hai chân lý đầu, đấy là, chân lý về khổ đau và cội nguồn
của khổ đau, là trên phía thông thường này, và hai chân lý kia, con đường chân
thật và sự chấm dứt chân thật, là những con đường vượt khỏi. Ở đây, khi sử
dụng từ ngữ "vượt khỏi ", chúng ta liên hệ đến những loại giác ngộ
chân thật. Từ ngữ liên hệ để có sự vượt khỏi thế giới sinh tử, vòng luân
hồi, và do thế, khi chúng ta nói về từ ngữ "vượt khỏi", nó có thể
liên hệ đến sự tận diệt những cảm xúc phiền não, và khổ đau, và vì thế, là việc
đạt đến giải thoát. Cũng thế, có một hình thức giác ngộ rộng lớn hơn mà
đấy là Quả Phật. Ở đây, chúng ta chủ yếu nói về ý nghĩa ấy khi chúng ta
nói về "vượt khỏi".
giác
ngộ có nghĩa là tiếp thu những phẩm chất tích cực cần thiết toàn phần của
chúng. Do vậy, từ ngữ "giác ngộ" trong phạm vi này có hai ý
nghĩa: nó có thể liên hệ đến con đường đưa đến thể trạng kết quả của Quả Phật,
hay nó có thể liên hệ thể trạng kết quả của chính Quả Phật. Nên nó liên
hệ cả con đường và thành quả. .
Khi
chúng ta hướng để đạt tới đại giác ngộ, hay Quả Phật, con đường mà chúng ta cần
để trau dồi là lòng vị tha, căn cứ trên nguyện ước để đạt đến giác ngộ vì lợi
ích của tất cả chúng sinh.
Một
khía cạnh khác nữa của đại giác ngộ hay Phật Quả là đấy là một thể trạng tự tại
khỏi tất cả những sự tạo tác. Nó có thể có ý nghĩa rằng khi chúng ta đạt
đến thể trạng Phật Quả, nó không có những loại đa dạng của cấu uế, nhiễm ô, khổ
đau và những cảm xúc phiền não. Giác ngộ như vậy không chỉ tự tại
khỏi những loại việc này mà cũng tự do khỏi những hiện hữu nhị nguyên đa
dạng. Khi chúng ta đạt đến một thể trạng như vậy, tháo gở mọi xiềng xích
của tất cả mọi tạo tác trong hình thức của nhị nguyên chủ thể - khách thể
và những hiện hữu của thế gian tục đế.
Chúng
ta không tự do bởi vì sự nhị nguyên chủ thể - khách thể hay những hiện tướng
thế gian của tục đế
chúng ta tự do bởi vì những sự tạo tác này
chấm dứt hiện hữu khi chúng ta đạt đến thể trạng giác ngộ. Trong một thể
trạng như thế, tâm giác ngộ hay toàn giác như thế hoàn toàn hòa nhập với tính
không. Đối với một tâm như thế, không có sự tạo tác tồn tại
Một
là sau khi đạt đến một thể trạng giác ngộ như thế, hành giả có năng lực tự tại
và không mệt mõi để hoàn thành nguyện ước của chúng sinh. Loại khả
năng ấy là một kết quả của việc phát triển động cơ vị tha để đạt đến giác ngộ
vì lợi ích của tất cả chúng sinh khi chúng ta ở trong giai tầng tu tập.
Một
khía cạnh khác nguyên nhân cho việc đạt đến một thể trạng như vậy là sự phát
triển tuệ trí thực chứng tính không. Thể trạng toàn giác là một sản phẩm
của những nguyên nhân và nhân tố. Nó là một hiện tượng nhân duyên.
Vì thể trạng toàn giác là một sản phẩm của những nguyên nhân và nhân tố, nó ở
trong tác động của luật nhân quả. Do vậy, hệ thống này con đường của hiệu
lực và con đường của thành quả, là ở trong phạm vi của lý duyên khởi.
Những khổ đau mà chúng ta gặp phải sinh khởi từ những nguyên nhân và điều kiện
tương ứng. Tương tự thế, hạnh phúc mà chúng ta trải nghiệm cũng tùy thuộc
trên những nhân duyên tương hợp.
Hình
thức cao nhất của hạnh phúc, trong thể trạng giác ngộ, cũng sinh khởi từ nguyên
nhân và điều kiện (nhân duyên). Những thứ này xảy ra trong phạm vi nhân
quả. Bất cứ loại kết quả hay hoa trái nào xảy ra bởi nhân duyên trên
những nguyên nhân và điều kiện ấy có khả năng để sản sinh loại kết quả đặc thù
ấy.
trái cây ngọt ngào có thể sản sinh từ những
hạt giống ngọt ngào. thể trạng Quả Phật hay giác ngộ phải đến từ những
khả năng hay tiềm năng mà chúng ta có.
Trong
thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và
thân chân thật, tức là sắc thân và pháp thân. Sắc thân Phật là thân tự
tại và dễ dàng xuất hiện trước chúng sinh để cứu độ họ. Pháp thân
như chúng ta đã thảo luận phía trước, là một thể trạng tự do khỏi tất cả những
loại tạo tác. Nguyên nhân của việc đạt đến sắc thân là việc phát triển và
thực hành tâm giác ngộ (bodhichitta), và nguyên nhân của việc thân chứng pháp
thân là tuệ trí thực chứng tính không.
Nếu
chúng ta cố gắng để đơn giản hóa ý nghĩa của tuệ trí thực chứng tính không và
của tâm giác ngộ hay tâm bồ đề (bodhicitta), chúng ta có thể nói rằng tuệ trí
thực chứng tính không là hình thức tuyệt hảo nhất của thông minh, tột đỉnh của
sự phát triển của nó, và tâm giác ngộ hay tâm bồ đề là hình thức tuyệt vời nhất
của cảm xúc loài người.
Chúng
ta nhận ra rằng chúng ta đã có sẳn căn bản của hai tính chất này.
Chúng ta có những cảm xúc, khả năng để phán xét, và thông minh. Do vậy,
khi chúng ta phác thảo đại cương những giáo huấn của Đức Phật, chúng ta cũng
làm thế với ba điểm chính: Chúng ta có sự trình bày về những phẩm chất
nền tảng mà chúng ta liên hệ đến quy luật tự nhiên. Chúng ta có trình độ
của con đường nơi chúng ta dấn thân vào những sự thực hành lộ trình này phù hợp
đến quy luật tự nhiên. Và qua những sự thực hành này, chúng ta hiện thực
thành quả trong hình thức giác ngộ; điều này cũng phù hợp với con đường.
Do vậy, chúng ta sử dụng thuật ngữ "toàn thiện" hay "rốt
ráo" trong việc liên hệ đến những sự thực hành ấy trên tầng bậc tu tập
rèn luyện tác động bởi tâm giác ngộ và tuệ trí thực chứng tính không.
Có
thể có hai loại tuệ trí thực chứng tính không.
Loại thứ nhất liên hệ đến việc không thể thấy
tính không một cách trực tiếp nhưng nhận ra tính không qua một loại ý niệm
chung
Loại
thứ hai là nhận thức hay thấy rõ và không lệ thuộc qua một giai đoạn trung gian
hay sự hình dung chung chung (của phân tích).
Vì thế, khi chúng ta nói về những sự thực hành
được tác động bởi tuệ trí và phương pháp, nó liên hệ đến những loại tuệ trí
trực trực tiếp thấy rõ tính không.
Khi
chúng ta nói về nhu cầu phát triển tâm giác ngộ (bodhicitta), là điều mà tâm
thức yêu mến ấp ủ lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta thấy rằng
có thể phát triển một loại tâm thức như vậy bởi vì trong chúng ta, chúng ta có
thái độ tự yêu mến này. Chúng ta có thể phát triển một thái độ như vậy
bởi vì chúng ta có một cảm giác gần gũi đến chính chúng ta. Chúng ta có
một lòng tự ái, và căn cứ trên điều này, chúng ta phát triển một loại thái độ
tự yêu mến.
Tương
tự thế, nếu chúng ta phát triển một cảm giác gần gũi đến những người khác,
những chúng sinh khác, chúng ta có thể sử dụng điều ấy để phát triển một nguyện
ước mà nguyện ước ấy là yêu mến lợi ích của những người khác, của những chúng
sinh khác. Vì vậy, đầu tiên, nên có một loại tự ái, một tâm thức yêu mến
đối với chính chúng ta, bởi vì trong sự vắng bóng của việc có thể nhận thức về
chính mình, thì không thể, hay khó khăn để phát triển một tâm tư yêu mến lợi
ích của những chúng sinh khác. Một cách căn bản, tất cả chúng ta có một
cảm giác gần gũi với chính mình. Ngay cả trong những trường hợp tự thù
ghét mình biểu lộ ra bên ngoài, thì một loại thái độ tự yêu mến nào đấy vẫn
chất chứa sâu xa bên trong chúng ta.
Từ
sự yêu mến chính mình mà con người có thể dần dần mở rộng một thái độ tương tự
đến những người khác. Ngay cả thú vật cũng có một lòng vị tha hạn chế,
đặc biệt những con thú mà con cái của chúng lệ thuộc vào chúng trong một thời
gian. Một cách tự nhiên, sẽ có một sự ràng buộc về tình thương đặc
biệt. Vì thế tình thương này, cảm giác tự nhiên về cảm kích, đến từ một
nhu cầu sinh học bởi vì cấu trúc, hình thành cơ thể, khiến chúng ta phải tùy
thuộc vào tình thương. Nhằm để sống còn, chúng ta cần chăm sóc
nhau. Chúng ta đã có hạt giống của từ ái và bi mẫn hay tình cảm cho kẻ
khác bởi vì chúng ta có tình thương cho chính chúng ta. Đấy là hạt giống.
Làm
thế nào để phát triển lòng vị tha vô hạn? Dường như là có thể phát triển
lòng vị tha vô hạn qua tuệ trí và óc thông minh.
khi
phát triển từ ái và bi mẫn cho người khác, chúng ta có thể phát triển sự toại
nguyện và can đảm sâu xa trong tinh thần. Như một kết quả , chính chúng
ta những hành giả được lợi lạc. Chúng ta sẽ ít sợ hãi hơn, nhiều
năng lực ý chí hơn. Nhiều tự tin hơn. Một cách tự động, chúng ta trở nên
tĩnh lặng tinh thần hơn.
thật
sự là ích kỷ một cách chân thành nếu luôn luôn nghĩ về người khác."
Nhiều sự khó khăn và rắc rối của chúng ta, tôi nghĩ là, liên hệ đến sự phóng
chiếu tinh thần hay vọng tưởng của chúng ta. Nếu thái độ của ai đấy là
đúng đắn, ngay cả khi bị bao quanh bởi môi trường không thân thiện, người ấy
vẫn có thể an tịnh và vui vẻ.
Liên
quan đến việc thực hành ban cho và rộng lượng, có ba cấp độ của việc ban cho,
được quyết định bởi phầm chất của nó.
Thứ
nhất được gọi là "ban cho những phương tiện vật chất" hay tài thí.
Thứ
hai được gọi là "ban cho sự không sợ hãi" hay vô úy thí.
Thứ
ba được gọi là "ban cho những lời dạy của Đức Phật " hay Pháp thí.
.
Với
việc quan tâm đến thực hành kiên trì (nhẫn nhục ba la mật),), có ba loại.
Thứ
nhất là "kiên trì để có thể chịu đựng những thử thách khó khăn và khổ
đau."
Thứ
hai là "kiên trì tự nguyện đón nhận những khổ đau và thử
thách."
Và
thứ ba là "kiên trì phát triển sự xác định đối với những thực hành Phật
Pháp,"[3] là những thứ liên hệ đến thiền tập về Tính Không. sự tập trung
liên hệ đến sự thực tập về khái niệm Tính Không.
Trong
việc quan tâm đến tuệ trí (bát nhã ba la mật), chúng ta có nói có hai loại tuệ
trí chính yếu:
Một là "tuệ trí thực chứng những hiện
tượng quy ước thế gian (tục đế),"
Hai
là "tuệ trí thực chứng thực tại tối hậu, sự thật căn bản (chân
đế)"
Sự
thực hành sáu toàn thiện có thể tóm tắt dưới hai điều:
- Phương pháp (cho việc tích lũy phước đức
- Tuệ trí (cho việc tích tập tuệ
giác).
Sự
phân chia lộ trình thành phương pháp và tuệ trí liên hệ đến thực tại căn bản
của đối tượng bởi vì trong quy luật của tự nhiên, chúng ta thấy hai đặc trưng
của các hiện tượng. Một là những hiện tượng quy ước thế gian, và thứ kia
là thực tại tối hậu của những hiện tượng đó.
Chúng ta nói về hai sự thật, sự thật quy ước
(tục đế) và sự thật tối hậu (chân đế). Để có một sự thấu hiểu thích đáng
về hai sự thật này, điều quan trọng là phải hiểu sự bất tương xứng giữa những
hiện tướng và thực tại.
.
Do thế khi chúng ta định tiếp nhận bất cứ một tiến trình học hỏi nào, những gì
chúng ta cố gắng để làm là để giảm thiểu sự bất tương xứng giữa hiện tướng và
thực tại.
Chúng
ta cố gắng để biết thực tại qua học tập, đặc biệt qua năng lực phân tích, kể cả
thẩm nghiệm. Chúng ta không hài lòng với những hiện tướng. Nghiên
cứu học tập và khảo sát giúp để giảm thiểu khoảng cách giữa những hiện tướng và
thực tại.
Khái
niệm về hai sự thật là một sự hổ trợ vô biên trong việc giảm thiểu khoảng
cách này.
Do
đó là tại sao khái niệm về tính không là rất liên quan đến những kinh nghiệm
hàng ngày.
Nếu những khái niệm này chỉ duy trì trong cấp
độ tri thức trí óc, như những thông tin đơn thuần, chúng ta sẽ chỉ có những ảnh
hưởng nhỏ nhoi.
Phương
pháp và lựa chọn một lộ trình liên hệ và thích hợp với xu hướng tinh thần của từng
hành giả để phát triển tâm giác ngộ và tuệ trí thực chứng tính không
Một
số người có ấn tượng rằng Tiểu Thừa, Đại Thừa, và Kim Cương Thừa là những
Thừa hay cổ xe khác nhau, và hoàn toàn độc lập với nhau. Điều đó
hoàn toàn sai lầm.
Nhằm
để thực hành Bồ Tát Thừa, cũng gọi là Đại Thừa, nền tảng của sự thực tập căn cứ
trên giáo huấn Bốn Chân Lý Cao Quý và Tám Thánh Đạo. Trên nền tảng
ấy, sự thực hành bồ tát được xây dựng. Do vậy, trong sự thiếu vắng những
sự thực tập nền tảng được dạy trong Tiểu Thừa hay Thượng Tọa bộ, thì không thể
kiến thiết những sự thực hành Đại Thừa. Trong sự vắng bóng của những sự
thực hành Đại Thừa Hiển Giáo, thì không thể tiến hành việc thực hành Đại Thừa
Mật Giáo. Trình độ tâm linh cao hơn được xây dựng trên nền tảng của những
sự thực hành trước.
Trong
truyền thống Ki Tô Giáo, Thiên Chúa Ba Ngôi đôi khi được nói là tương tự với
khái niệm của Phật Giáo về Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo hay với ba thân: Pháp
thân, Báo thân, và Hóa thân. Chúng ta có thể nhận ra những tương đồng nào
đấy. Không hề gì.
giải
thoát cũng là một kết quả của nhân quả, Điều
xấu có thể trở thành điều tốt bởi vì chúng ta có thể chấm dứt sự tương tục của
điều xấu. Tâm thức, tâm vi tế, là không có bắt đầu.
vòng luân hồi là sự tương tục của mật tông và
niết bàn là một tantra theo sau. Khi chúng ta nói về vòng luân hồi hay
niết bàn, nó phải được giải thích trong sự liên kết với sự tương tục của
tantra, đấy là, sự tương tục của tâm thức. Nhưng cho đến khi mà có một sự
tương tục của tâm thức và những cảm xúc bất tịnh và phiền não vẫn còn thì đấy
là sự luân hồi. Khi tất cả những cảm xúc tiêu cực và phiền não - qua
những sự đối trị của chúng - được tiêu trừ, tâm thức ấy được nói là ở trong thể
trạng niết bàn.
khi
chúng ta nói về niết bàn, chúng ta liên hệ đến thể trạng tối hậu, thực tại tối
hậu của tâm thức, khi tâm thức được hoàn toàn tịnh hóa khỏi những cảm xúc phiền
não.
Hầu
hết mọi người yêu mến bè bạn. Nếu chúng ta có bạn bè, những người bạn
chân thành, với họ chúng ta có thể trau đổi những nụ cười và những kinh nghiệm
khác nhau với lòng tin, chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn, tĩnh lặng hơn.
Nếu
chúng ta không tin tưởng mọi người, chúng ta cảm thấy cô đơn, và có một cảm
giác không an toàn. .
Bạn
bè, thân hữu chân thành, phải hành động nhiều nhiều với trái tim nồng ấm, không
phải tiền bạc hay quyền lực.
Khi
chúng ta đạt được sự giàu sang, quyền thế chính trị, hay danh thơm, chúng ta có
thể tìm thấy bạn bè của một loại khác - nhưng những người ấy không nhất thiết
là những bằng hữu chân thành.
Một
người bạn chân thành xem chúng ta chỉ như một con người khác, như một người anh
chị em, và biểu lộ tình cảm trên trình độ ấy, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo,
trong một vị thế cao hay thấp. Đấy là một người bạn chân thành.
Nói
chung, khi chúng ta đòi hỏi tri thức, có ba trình độ của tiến trình: nghe
(văn), nghĩ (tư), rồi thì thiền tập (tu). Do vậy, chỉ nghe và kiến thức
có được chỉ từ nghe mà thôi thì rất hời hợt. Chúng ta phải nghĩ về chính
mình và nếu có thể, thẩm nghiệm, thực hiện những khảo sát xa hơn, phân tích xa
hơn. Trong cách ấy, chúng ta đạt được một sự tĩnh thức sâu hơn. Rồi
thì tri thức của chúng ta sẽ hợp lý hơn, và cuối cùng có thể chuyển hóa vào
trong hành động. .
Nghiệp
báo không có nghĩa là "tiền định". Bằng việc tùy thuộc trên
những trình độ khác nhau của các hành vi, chúng ta có thể thay đổi tiến trình
trải nghiệm của mình trong đời sống.. Mặc dù kết quả của một hành vi nào
đấy đã được lên chương trình, nếu một hành động nào đấy mạnh mẽ hơn đến, các
kết quả sẽ thay đổi.
1 comment:
Merci mon cher! Tôi vừa đọc xong bài viết này.Tôi cũng có một tủ sách cá nhân ( sách tuyển chọn) về
Phật giáo và Đạo giáo. Tư tưởng nhà Phật cùng Lão-Trang vẫn là cặp cánh giúp tôi bay vào cõi
tâm linh và sáng tạo; cho dù tôi vẫn theo thói quen đi bộ hay lái xe trên mặt đất mỗi ngày! C.P.
Post a Comment