CNLM bắt nguồn từ Đức rồi nhanh chóng lan sang Anh, Pháp và
xa hơn, rồi đến Mỹ khoảng năm 1820, trên dưới 20 năm sau khi William
Wordsworth và Samuel Taylor Coleridge làm cuộc cách mạng thi ca Anh bằng
việc xuất bản tập Lyrical Ballads (Thơ trữ tình). Ở Mỹ cũng
như châu Âu thời đó, một quan điểm mới mẻ tươi tắn truyền đi như dòng
điện trong giới nghệ sĩ, trí thức.
Tuy vậy, cũng có một sự khác biệt quan trọng: chủ nghĩa lãng mạn ở Mỹ xảy ra cùng lúc với thời kỳ bành trướng quốc gia và sự khám phá giọng điệu riêng của nước Mỹ. Sự củng cố đặc trưng quốc gia và sự trỗi dậy của chủ nghĩa lý tưởng cùng với niềm đam mê chủ nghĩa lãng mạn đã nuôi dưỡng những kiệt tác của “thời Phục hưng Mỹ”.
Những tư tưởng lãng
mạn tập trung quanh nghệ thuật như nguồn cảm hứng, như chiều kích thẩm
mỹ và tâm linh của cõi tự nhiên và như những ẩn dụ về sự phát triển hữu
cơ.
Những tác gia của chủ nghĩa
Lãng mạn lý luận rằng nghệ thuật, chứ không phải khoa học, có thể diễn
tả tốt nhất về chân lý phổ quát. Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của
nghệ thuật biểu hiện đối với mỗi cá nhân và xã hội. Trong tiểu luận The
Poet (Nhà thơ - 1844) Ralph Waldo Emerson, có lẽ là tác giả có ảnh
hưởng lớn nhất của thời kỳ Lãng mạn, khẳng định:
Con người ta sống bằng chân lý và có nhu cầu tự biểu hiện. Trong tình yêu, trong nghệ thuật, trong lòng tham, trong chính trị, trong lao động, trong vui đùa, chúng ta học để thốt ra những bí ẩn đau đớn của chúng ta. Con người chỉ là một nửa của mình, nửa kia chính là sự diễn đạt tư tưởng của anh ta.
Sự phát triển cái tôi trở thành một chủ đề quan
trọng; trong đó sự tự nhận thức là phương pháp cơ bản. Nếu theo lý luận
của chủ nghĩa lãng mạn, cái tôi của con người và tự nhiên là một, thì sự
tự biết mình không phải là mục đích hoàn toàn vị kỷ mà là một cách nhận
thức có hướng mở ra cùng toàn thể vũ trụ.
Khi cái tôi của một người cũng hợp nhất làm một với
toàn nhân loại thì khi ấy mỗi cá nhân có một bổn phận đạo đức trong
việc cải tạo những bất bình đẳng trong xã hội và làm vơi đi nỗi khổ đau
của con người. Bản ngã -cái tôi được các thế hệ trước cho là đầy tính vị
kỷ đã được định nghĩa lại. Những từ kép mới với ý nghĩa tích cực đã
xuất hiện: “tự nhận thức”, “tự biểu hiện”, “tự tín”. Khi cái tôi chủ
quan đơn nhất trở nên quan trọng, thì lãnh địa tâm lý cũng trở thành
quan yếu. Những kỹ thuật và hiệu quả mang tính nghệ thuật đặc biệt được
phát triển để khơi dậy những trạng thái tâm lý cao cấp. Cái “siêu phàm” -
hiệu quả của cái đẹp trong sự hùng vĩ (ví dụ, một cảnh quan nhìn từ một
đỉnh núi) - đã tạo ra những cảm giác sợ hãi, tôn kính, choáng ngợp và
sức mạnh vượt ra ngoài sự hiểu biết của con người.
Chủ nghĩa Lãng mạn chiếm ưu thế và thích hợp với
hầu hết những nhà thơ và những nhà tiểu luận Mỹ. Rừng núi bao la, sa mạc
vô tận và miền nhiệt đới mênh mông của nước Mỹ là hiện thân của cái
“siêu phàm”. Tinh thần lãng mạn dường như đặc biệt thích hợp với nền dân
chủ Mỹ: nó đề cao chủ nghĩa cá nhân, tôn vinh giá trị của con người
bình thường, và hướng vào sự tưởng tượng đầy cảm hứng để tìm những giá
trị thẩm mỹ và đạo đức. Chắc hẳn những tác giả theo chủ nghĩa siêu
nghiệm ở New England: Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau và bằng
hữu của họ - đã được trào lưu Lãng mạn kích thích để vươn tới một sự
khẳng định lạc quan và mới mẻ. New England chính là mảnh đất màu mỡ của
hạt giống lãng mạn chủ nghĩa.
Kì sau : chủ nghĩa siêu nghiệm
No comments:
Post a Comment