Trần Hữu Thục
James Joyce, Ulysses và thách đố mới
Bloomsday
Bloomsday – ngày của Bloom, là gì vậy? Là 16/6/1904, một ngày hư cấu
trong đời của Leopold Bloom, tên nhân vật chính trong truyện dài nổi
tiếng Ulysses của James Joyce. Người ta chọn ngày này để vinh
danh Bloom mà thực ra, là để vinh danh tác giả, người được xem là nhà
văn đã khai sinh ra chủ nghĩa hiện đại (modernism) trong nền văn chương
thế giới thế kỷ 20. Bloomsday được những người hâm mộ Joyce tạo ra vào
năm 1954 xuyên qua một lễ hội rầm rộ tổ chức tại thành phố Dublin với
nhiều sinh hoạt văn hóa khác nhau.
Kể từ đó, Bloomsday trở thành một
sinh hoạt truyền thống diễn ra hàng năm tại Dublin, thủ đô của nước cộng
hòa Ái Nhĩ Lan (Ireland). Cư dân Dublin, dù thích hay không thích
Joyce, vẫn xem đó là một cơ hội để vui chơi và kiếm tiền. Cho nên không
lạ gì, những sinh hoạt xoay quanh tên tuổi và các tác phẩm của Joyce
vàø Ulysses, đã trở thành một ngành kỹ nghệ gọi là “kỹ nghệ Joyce” (Joyce industry).
Tháng 6/2004 là kỷ niệm 100 năm Bloomsday. Vào thời gian đó, hàng
ngàn người từ trên khắp thế giới đã quy tụ về Dublin để tham dự “ReJoyce
Dublin 2004”[1] bao gồm đến 75 sinh hoạt khác nhau: hội thảo văn học,
hòa nhạc, diễn hành, chiếu phim, ăn uống, thăm viếng, vui chơi và triển
lãm. Những buổi đọc sách diễn ra trên đường phố Dublin với nhiều diễn
viên ăn mặc như các nhân vật trong truyện do Gay Byrne, diễn viên truyền
hình, nhà soạn kịch Gerry Stembridge và nhạc sĩ Ronnie Drew trình diễn.
Các tiệm sách chất đầy những ấn bản khác nhau của Ulysses và những tác phẩm khác của Joyce cùng với các bài báo, tiểu luận, tiểu sử, sách tranh ảnh về Joyce, những bộ CD đọc truyện Ulysses kéo
dài 27 tiếng đồng hồ cùng với những vật kỷ niệm như áo sơ mi, tranh
treo, ly cà phê, lịch và các thứ lặt vặt khác. Những người ái mộ đi thăm
tháp Martello ở Sandy Cove, nơi nhân vật Dedalus sống với mấy người
bạn, thăm quán Davy Byrne, nơi họ đổ rượu ra đường. Rất nhiều người hâm
mộ khác đã đến viếng ngôi nhà của Joyce như là một cuộc hành hương về
đất thánh.Ðỉnh cao là một “Bữa điểm tâm Bloom” (Bloom’s Breakfast) với
sự tham dự của khoảng 10 ngàn người tụ lại trên đường O’Connell, con phố
chính của thành phố Dublin. Mọi người được tha hồ ăn lòng chiên, thận
trừu và uống bia Guinness hoàn toàn miễn phí. Buổi điểm tâm vĩ đại này
được Dennys – cơ sở sản xuất xúc xích, loại xúc xích trở nên nổi tiếng
nhờ Joyce đưa vào trong truyện – bảo trợ.
Ðể vinh danh Joyce, thư viện quốc gia Ái Nhĩ Lan mở thêm một khu mới
để trưng bày tất cả những gì liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của
Joyce bao gồm chứng liệu, bản thảo, thư từ trao đổi giữa Joyce và người
thân, bạn bè, nhà xuất bản, độc giả, vợ – kể cả những lá thư hoàn toàn
riêng tư đầy những từ tục tĩu viết cho vợ – và đặc biệt lần đầu tiên,
trưng bày bản thảo gốc của Ulysses. Cuộc triển lãm này mở ra
một cánh cửa cho người ta có thể nhìn vào tiến trình sáng tác phức tạp
của tác giả. Về mặt thuần túy văn học, người ta tổ chức một sinh hoạt
chuyên đề về Joyce lần thứ 19, kéo dài từ 12 đến 19/6, tại đại học Quốc
Gia Ái Nhĩ Lan, nằm trong khu phía bắc Dublin, nơi Joyce sinh trưởng và
là khung cảnh mà ông dùng để viết tác phẩm. Buổi sinh hoạt có sự tham
dự của hơn 800 người từ 36 quốc gia gồm những nhà “Joyce học” hàng đầu
trên thế giới cùng các nhà văn nhà thơ, những người hâm mộ, kể cả một
nhóm giáo sư đại học Cambridge, những học giả nghiên cứu về văn chương
viết bằng Anh văn từ Ðài Loan, các thành viên của một câu lạc bộ sách từ
Na Uy. Mỗi một tham dự viên đóng 400 đô la, sẽ cùng nhau đào sâu vào
từng ngõ ngách của văn bản Ulysses về cả lãnh vực siêu hình lẫn hiện thực.
Theo một số trí thức hàng đầu của Ái Nhĩ Lan thì những người ái mộ
Joyce đã hình thành nên một thứ “sùng bái Joyce” (Joyce cult). Một trong
số những trí thức đó, nhà thơ đoạt giải Nobel văn chương Seamus Heaney,
trong cuộc phỏng vấn tại phòng triển lãm về Joyce, cho Ulysses là
một “Good Book” của chủ nghĩa hiện đại. Ông khẳng định là với ngày lễ
hội “Bloomsday” được tổ chức như thế này ở Dublin cũng như tại nhiều nơi
khác trên thế giới, Ái Nhĩ Lan sẽ chứng kiến “sự sụp đổ của uy quyền
giáo hội Công giáo La Mã” (collapse of the church as the magisterium)
đồng thời với sự trổi dậy của “một quyền năng nhân bản thế tục mới” (a
new secular, humanist authority), trong đó, Ulysses sẽ được tôn kính như một thứ “thông điệp thế tục” (secular encyclical), nghĩa là một Thánh kinh thế tục (secular Bible).
Những người ái mộ Joyce còn hình thành những nhóm gọi là “nhóm đọc
Joyce” (Joyce reading groups). Nhân lễ hội này, số nhóm phát triển càng
mạnh. Số người ghi danh vượt quá quy định, mặc dầu phải mất trung bình
đến …bảy năm rưởi mới đọc xong một cuốn như Finnegans Wake. Nhóm
viên những nhóm đọc này phần đông là ngươi hưu trí vì chỉ có những
người không đi làm mới có thời gian để đọc. Nhiều người trong số này cho
biết họ nuôi mộng đọc Joyce từ lâu mà đành phải đợi cho đến khi về hưu
mới bắt đầu ghi danh[2].
James Joyce
James Joyce, tên thật là James Augustine Aloysius Joyce, sinh vào
ngày 2 tháng 2 năm 1882 tại Dublin, thủ đô của Ái Nhĩ Lan (Ireland), con
trai đầu trong một gia đình 10 đứa con và thường xuyên túng thiếu. Ông
theo học các trường dòng Công giáo và sau này lên đại học Dublin học về
ngôn ngữ . Ðược nuôi dưỡng và giáo dục trong niềm tin công giáo La Mã,
nhưng ông bỏ đạo vào năm cuối đại học, gọi là để hiến mình cho văn
chương. Tốt nghiệp cử nhân về ngôn ngữ hiện đại năm 1902, ông
rời Dublin đi Paris với ý định học y khoa, nhưng rồi cuối cùng gia đình
không chu cấp nổi vì ông tiêu xài hoang phí. Ông sống lang thang, kiếm
tiền bằng cách điểm sách cho các tạp chí, dạy học và hát, nhưng cuối
cùng phải về lại Dublin khi mẹ bệnh nặng. Thương mẹ, nhưng ông từ chối
cầu nguyện cho mẹ khi bà hấp hối vì ông đã bỏ đạo. Ðiều này khiến ông ân
hận mãi và chi tiết này vẫn thường loáng thoáng xuất hiện trong Ulysses. Ngày 16/6/1904 – ngày được đưa vào Ulysses đểø
trở thành Bloomsday – ông quen một cô gái tên là Nora Barnacle, và bất
chấp những khác biệt – ông yêu cô gái. Sau đó, cùng năm, hai người bỏ Ái
Nhĩ Lan sang định cư ở Trieste (Ý). Hai đứa con ra đời và gia đình sống
rất chật vật. Joyce kiếm tiền bằng cách dạy Anh Văn và một vài nghề lặt
vặt khác. Khi Ý lâm chiến năm 1915, gia đình dời sang Zurich. Tại đây,
đời sống cũng chẳng khá gì hơn. Ðã thế, Joyce lại bị bệnh mắt, phải chữa
chạy rất tốn tiền. Ông trải qua đến 10 lần giải phẫu, nhưng bệnh vẫn
không lành. Nhiều năm sau, ông gần như bị mù hoàn toàn. Từ đó, để sáng
tác, ông phải dùng một cây bút chì đỏ viết trên một những tờ giấy trắng
khổ lớn. Nhiều tác phẩm, kể cả Ulysses, ra đời trong điều kiện
tồi tệ đó. Nhưng được cái, lúc này, ông đã có tiếng tăm và do đó được
nhiều người yêu văn chương tìm cách giúp đỡ. Năm 1920, Joyce chuyển qua
sống ở Paris và lưu lại ở đây đến 20 năm. Có một thời gian ông sống một
cuộc sống tương đối phóng túng do sự tài trợ của một số người yêu mến
tài năng ông, trong đó có một phụ nữ, bà Harriet Weaver, chủ bút của tờ
“The Egoist”. Suốt thời gian này, ông chuyên viết lách và xuất bản. Vào
đầu đệ nhị thế chiến, sau khi Pháp bị quân Ðức xâm lăng, Joyce và gia
đình chuyển về Zurich (Thụy Ðiển) và chết ở đó một cách bất ngờ vào ngày
13 tháng 1 năm 1941 vì bị loét tá tràng.
Tài năng của Joyce phát triển rất sớm. Ông làm thơ và viết văn khi
mới chỉ lên 9 tuổi. Lên đại học, ông tập tễnh viết tiểu luận văn chương.
Một trong những tiểu luận nổi tiếng nhất lúc đó là bài điểm tác phẩmWhen We Dead Awaken của nhà văn Thụy Ðiển Ibsen và được tác giả viết thư trao đổi ý kiến. Tác phẩm đầu tay, Chamber Music,
xuất bản năm 1907, là một thi tập, gồm có 36 bài thơ tình, chịu ảnh
hưởng của giòng thơ lãng mạn của những nhà thơ trữ tình Anh thập niên
1890. Tác phẩm thứ hai, Dubliners (1914), một tuyển tập truyện
ngắn, trong đó, các đề tài xoay quanh đời sống thời niên thiếu
tại Dublin. Tác phẩm gây ra dị ứng với nhiều người dân Dublin, nên có
lần đã bị đem ra đốt công khai tại Dublin. Truyện dài đầu tay, A Portrait of the Artist as a Young Man (1916),
là một tự truyện mà qua đó, lần đầu tiên Joyce sử dụng loại văn “giòng ý
thức” (stream-of-consciousness), tức là độc thoại nội tâm
(interior-monologue), một kỹ thuật văn chương mới nhằm diễn đạt những
tình cảm, cảm giác, tư tưởng và xúc động của nhân vật xuất phát từ hiện
thực tâm lý. Tác phẩm kế tiếp là Exiles, một vở kịch.
James Joyce lúc 6 tuổi
Danh tiếng của Joyce trở thành quốc tế khi truyện dài Ulysses được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1922, mặc dù bị cấm lưu hành ở Hoa Kỳ và Anh. Tác phẩm cuối cùng là Finnegans Wake, xuất bản vào năm 1939. Tác phẩm này còn phức tạp hơn Ulysses trong
một ý đồ thể hiện lý thuyết có tính chu kỳ của lịch sử (cyclical theory
of history) được viết dưới hình thức của một chuỗi bất liên tục những
giấc mơ kéo dài trong một đêm của một nhân vật tên là Humphrey Chimpden
Earwicker. Earwicker, gia đình và những người quen biết của anh ta pha
trộn lẫn nhau và pha trộn với những khuôn mặt lịch sử và thần thoại y
như những nhân vật trong giấc mơ. Ngoài ra, Finnegans Wake còn đi xa hơn Ulysses trong
việc thể nghiệm ngôn ngữ bằng cách viết Anh văn như một thứ ngôn ngữ
kết hợp dựa trên sự tổng hợp những phần của các từ lấy từ nhiều ngôn ngữ
khác nhau.
Giữa hai tác phẩm trên là hai tập thơ, một là Poems Penyeach (1927) và một, Collected Poems (1936). Ngoài ra, một tác phẩm khác được xuất bản vào năm 1944, Stephen Hero, lại là một phiên bản khác của A Portrait of the Artist a a Young Man được
viết ra từ thời gian đầu. Joyce đã dùng các biểu tượng để tạo ra cái mà
ông gọi là “epiphany” (hiển linh), xem như là mặc khải cho những phẩm
tính nội tâm.
Bằng cách sử dụng kỹ thuật thực nghiệm để truyền đạt bản chất tinh
yếu của hiện thực, các sáng tác của Joyce là sự giao thoa của các truyền
thống văn chương hiện thực (realism), tự nhiên (naturalism) và tượng
trưng (symbolism), theo các học giả chuyên nghiên cứu về Joyce.
Ulysses
Tác phẩm được thai nghén vào khoảng năm 1906 khi ông chấm dứt truyện Dubliners và có ý định viết một truyện ngắn phụ thêm có tựa đề là Ulysses. Nhưng sau đó, ông đổi ý và viết A Portrait of the Artist as a Young Man. Mãi đến sau này, khi ở Trieste, ông mới bắt đầu viết Ulysses.
Ở đây, trong lúc đang viết, ông làm quen với nhà thơ Hoa Kỳ Erza Pound,
đang là biên tập viên ngoại quốc cho tờ tạp chí văn học Mỹ “The Little
Review”. Lúc đó, Pound đang tìm tài liệu để viết một truyện dài đăng
từng kỳ cho tờ báo. Sẵn dịp, Joyce đưa bản thảo Ulysses cho
Pound để đăng. Và rồi sau đó, ông bán luôn bản quyền cho người bảo trợ
tài chánh của tạp chí, luật sư John Quinn ở New York, với giá…1.200 đô
la. Ngay từ lần đăng đầu tiên vào tháng 3 năm 1918, Ulysses đã
bị các viên chức trong ngành kiểm duyệt Mỹ chú ý theo dõi vì nội dung
bất thường của nó, nhưng mãi đến tháng 8 năm 1920, tờ báo mới có lệnh
đình chỉ đăng tải các phần kế tiếp. Các ấn bản của “The Little Review”
bị tịch thu. Hai biên tập viên Margaret Anderson và Jane Heap bị tòa án
ở New Yorkkết án vì tội đã đăng chuyện tục tĩu. Sau khi Ulysses được
xuất bản ở Paris, tác phẩm tiếp tục bị cấm lưu hành ở Hoa Kỳ. Mãi cho
đến năm 1933, khi quan tòa John Woosley tuyên bố rằng Ulysses không có gì là tục tĩu, tác phẩm mới được chính thức đến với công chúng Hoa Kỳ.
Ulysses có một lịch sử xuất bản lâu dài và khá lạ lùng. Ấn
bản đầu tiên xuất bản vào năm 1922 tại Paris tất nhiên là có quá nhiều
sai sót, không cần phải bàn cãi. Trước đó, khi còn đăng tải từng kỳ trên
“The Little Review”, nhiều phiên bản của tác phẩm đã được trao qua
nhiều tay và tùy vào sở thích và ý đồ riêng của từng người, tác phẩm bị
cắt xén tùy tiện, hoặc bị giản lược, thay đổi. Trong thời gian này,
Joyce tiếp tục sửa chữa, thêm thắt các chi tiết khác vào trong tác phẩm.
Do đó mà sự khác biệt giữa các văn bản lại càng thêm sâu rộng làm cho
việc xuất bản tác phẩm càng về sau càng làm tối tăm thêm ý định ban đầu
của tác giả. Chính Joyce, lúc còn sống, cũng không dám quả quyết phiên
bản nào là đúng. Kết cuộc là, không có một văn bản nào thực sự được xem
là hoàn hảo, khiến cho đến bây giờ tác phẩm vẫn còn là đề tài tranh cãi
giữa các học giả. Có lần, Joyce lên tiếng đùa rằng Ulysses sẽ tạo công ăn việc làm cho các học giả đại học đến thế kỷ sau. “Tôi đã đưa vào trong Ulysses quá
nhiều ẩn ngữ (enigmas) và câu đố (puzzles) đến nỗi nó sẽ khiến cho các
giáo sư phải bận bịu hàng thế kỷ để tranh cãi xem tôi muốn nói gì, và đó
là cách duy nhất để bảo đảm tính bất tử của tác phẩm”[3]
Mãi đến năm 1961, 20 năm sau khi ông mất, một ấn bản mới gọi là ấn
bản “sữa chữa và điều chỉnh” (corrected and reset) mới xuất bản. Ấn bản
này được giới học giả tạm chấp nhận trong vòng 10 năm, cho đến khi một
nhóm nhà nghiên cứu do học giả người Ðức Hans Walter Gabler dẫn đầu,
quyết định bỏ công thực hiện một ấn bản đầy đủ hơn và chính xác hơn. Lục
lọi trong hàng đống giấy tờ, bản thảo, bản in, bản viết tay…và những ấn
bản có sẵn, cả nhóm làm việc liên tục trong vòng 10 năm (1974-1984), để
hoàn tất một ấn bản gọi là “Critical and Synoptic Edition”, phát hành năm 1984. Hai năm sau, một ấn bản chính thức ra đời gọi là “The Corrected Text”
được phát hành một cách ồn ào với ý đồ xác định đó là ấn bản hoàn hảo
nhất, có thể thay thế hẳn tất cả các ấn bản trước. Nhưng không được lâu,
ấn bản này bị tấn công nặng nề bởi một nhóm chuyên nghiên cứu về Joyce
khác do học giả Mỹ John Kidd cầm đầu. Nhóm này cho rằng cái gọi là “ấn
bản sữa chữa” này còn tệ hơn xa chừng so với ấn bản đầu tiên. Lời kết án
đó lập tức gây ra một cuộc tranh cãi dữ dội giữa hai nhóm mà người ta
gọi là những “cuộc chiến tranh về Joyce” (Joyce wars) tạo thành một
“scandal” lớn trong giới hàn lâm diễn ra trước sự thờ ơ của công chúng
(vì chuyên môn quá nên chẳng ai hiểu họ nói gì). Rốt cuộc, nhóm Kidd
giành được thế thượng phong, kết quả là nhà xuất bản Random House quyết
định giữ nguyên hai ấn bản 1961 và 1984. Riêng ấn bản “The Corrected
Text” thì bị “hạ xuống” thành “Gabler Edition”.
Cho đến nay, tác phẩm đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế
giới, trong đó có tiếng Pháp, Ðức, Ðan Mạch, Ý…Riêng về Pháp ngữ, kỷ
niệm 100 năm “Bloomsday”, một bản Pháp dịch mới của Ulysses đã
ra đời do một trong những nhà xuất bản lớn nhất và uy tín nhất Pháp là
Gallimard, phát hành vào đầu tháng 6/2004. Ðây là bản Pháp dịch lần thứ
hai, dày 982 trang. Bản dịch đầu tiên xuất hiện cách đây 75 năm, vào năm
1929, do Auguste Morel dịch với sự nhuận sắc của Valery Larbard và của
chính tác giả James Joyce. Ðể khắc phục những khuyết điểm của bản dịch
trước, bản Pháp dịch mới, thay vì chỉ do một cá nhân, là một công trình
tập thể với sự đóng góp của 8 người gồm 3 thành phần khác nhau: một nhà
dịch thuật văn học là Bernard Hoepffner, 3 nhà văn là Tiphaine
Samoyault, Patrick Drevet và Sylvie Doizelet, 4 giáo sư đại học chuyên
nghiên cứu về Joyce là Marie-Daniel Vors, Pascal Bataillard, Michel
Cusin và Jacques Aubert. Nhóm làm việc dưới sự hướng dẫn của nhà
Joyce-học (joycien) uy tín, giáo sư Jacques Aubert.
Giải thích lý do tại sao lại phải có một bản Pháp dịch mới của Ulysses,
Jacques Aubert cho biết Joyce “đã viết tác phẩm của ông gồm 18 chương
với không biết bao nhiêu văn phong khác nhau. Thực hiện một bản dịch tập
thể, có cái lợi là tránh được là chỉ dựa vào một người duy nhất, mà dù
dịch hay đến đâu, cũng không cho ta nhiều biến thái và cũng tránh được
văn bản chỉ có một giọng văn duy nhất”. Patrick Drevet, người phụ trách
dịch hai chương 6 (Hades) và chương 13 (Nausicaa), cho rằng dịch Joyce
là “một cuộc phiêu lưu đam mê và hứng thú. Ulysses là một văn
bản phủ đầy những đoạn văn với một sức khêu gợi sắc sảo. Ðối với tôi,
thật là thú vị khi bước vào trong tâm thế nhà văn của Joyce và thử dịch
ra bằng Pháp ngữ thế giới nội tâm mà ông đã tự mình diễn đạt bằng Anh
Văn”. Theo Drevet, Ulysses với vô số biến cách như sự lập lại
các âm đầu, những chữ tượng thanh, các phân đoạn khác nhau, giọng văn,
các trọng âm, những trò chơi chữ, các cảm giác, những hình ảnh, tốc độ
của tư tưởng đã được Joyce cố tình tạo ra để mang chúng đến gần với hiện
thực sống động được ghi nhận như là tổng số đa dạng của những gì được
tri giác, suy gẫm, ham muốn…Tất cả những cái đó giúp ông “khám phá ra
trong ngôn ngữ của tôi (tức tiếng Pháp) những nguồn suối diễn đạt mà tôi
đã không hề đi tìm cho chính tôi trước đó”[4].
Hélène Cixous – một tác giả mê Joyce – trong một bài in trên “Le
Monde”[5], cho rằng bản dịch năm 1929 đã quá xưa, cần phải bỏ đi. Bà quả
quyết: “Những dịch giả trong bản Pháp dịch mới đã “dám Joyce-hóa văn
bản” (oser joycer le texte), nghĩa là dám đưa vào bản dịch tất cả những
sắc thái mà trong nguyên bản Joyce cố tình tạo nên. Theo bà, đó không
chỉ là một dịch phẩm mà là một “siêu dịch” (ultraduction).
Tác phẩm hết sức khó đọc, đã từng bị tố cáo là dâm đãng và tục tĩu,
nhưng đồng thời lại được giới hàn lâm đánh giá rất cao và họ không ngần
ngại cho rằng đó là tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Ngày 21/7/1998,
một hội đồng tuyển chọn 10 người – đa phần là người Hoa Kỳ – của “New
York Modern Library”, một chi nhánh của nhà xuất bản Random House, chọn
ra một danh sách gồm 100 tác phẩm viết bằng tiếng Anh có giá trị nhất
của thế kỷ 20. Joyce có 2 tác phẩm được chọn, trong đó, Ulysses đứng đầu bảng và A Portrait of the Artist as a Young Man xếp hạng ba. The Great Gatsby của Scott Fitzgerald hạng nhì, Lolitacủa Vladimir Nabokov thứ tư vàø Brave New World của Aldous Huxley thứ năm.
Ðó là một tác phẩm đầy tham vọng với những nét châm biến trào lộng
độc đáo và đầy những thử nghiệm rắc rối về kỹ thuật viết lách. Dẫu vậy, Ulysses lại
rất hiện thực. Những gì được diễn tả trong đó đều được Joyce khảo sát
rất kỹ dựa trên các tham khảo lịch sử, phóng sự báo chí, các tài liệu về
môi trường, nơi chốn và sự vật. Joyce đã từng xác định là ông muốn vẽ
ra “một hình ảnh về thành phố Dublin hoàn toàn đến nỗi nếu một ngày nào
đó thành phố biến mất khỏi trái đất, người ta vẫn có thể tái tạo lại
bằng tác phẩm của tôi”.
Nhưng gì thì gì, Ulysses được hầu hết mọi người xem là một
trong những tác phẩm khó tiêu nhất của văn chương Anh và văn chương thế
giới. Lúc mới ra đời, nó “không giống ai”. Ðến bây giờ, hơn 80 năm sau,
nó cũng chẳng giống ai. Và cũng chẳng ai giống nó. Tác phẩm chật ních
nhưng câu văn lòng vòng, không có dấu ngắt câu cọng thêm với những tham
khảo cổ điển, những trích đoạn bài hát và thậm chí có cả những biểu đồ.
Cốt truyện thì giảm thiểu đến tối đa. Không gian: thành phố Dublin. Thời
gian: một ngày, hay nói cho chính xác là 18 tiếng đồng hồ. Nhân vật:
nhiều thì nhiều nhưng quy lại chỉ có ba. Cốt truyện có thể tóm tắt bằng
một câu đơn giản: cả ba nhân vật thức dậy, làm một số việc, gặp nhau và
rồi cuối ngày đi ngủ. Hết! Một là Stephen Delalus, từ Paris lưu vong trở
về Ái Nhĩ Lan. Hai là Leopold Bloom, một người Ái Nhĩ Lan gốc Do Thái,
trung niên. Cuối cùng là Molly, bà vợ dung tục của Bloom. Mặc dầu mọi
chuyện diễn ra chỉ trong một ngày, nhưng như Bloom nhận xét đó là “một
ngày mệt nhọc bất thường, đầy cả những chuyện tình cờ” bao gồm một đám
tang, một ca sinh nở, một vụ ngoại tình, một cuộc nhậu sa đà và sau đó,
kéo nhau vào khu mãi dâm.
Nhân vật Leopold Bloom
Bắt đầu với Stephen. Anh là một học giả và là một thầy giáo, bỏ Ái
Nhĩ Lan đi Paris (như Joyce) nhưng rồi bị buộc phải trở về sau khi nghe
tin bà mẹ bị bệnh nặng. Anh bị ám ảnh vì đã từ chối cầu nguyện bên cạnh
bà mẹ đang hấp hối. Anh cũng là người có hoài bão về văn chương. Anh
sống chung với một vài người bạn ở một phòng trọ gần bờ biển. Sau khi
thức dậy, anh khám phá ra rằng anh chẳng thích gì những người ở chung
phòng và dần dà, anh cũng chẳng thích gì chính mình, và rồi cả nghề dạy
học của mình cũng như bạn bè, xứ sở, tôn giáo. Anh chẳng thích gì, thích
ai cả. Suốt ngày anh ta đi hết từ tranh cãi này đến tranh cãi khác
trong chính ý thức anh ta về nghệ thuật, văn chương, tôn giáo, triết lý,
vân vân.
Bloom là một người đi thu quảng cáo, cái nghề buộc ông ta phải đi
khắp thành phố hàng ngày. Ông là một người theo Do Thái giáo trong một
vùng toàn dân Công giáo, thích ăn nhậu và làm tình, có xu hướng ưa nhìn
trộm cảnh dâm đãng (voyeurism). Nhưng trong gia đình, lại là một người
sợ vợ, thường lo ăn sáng và chạy việc cho vợ trong khi bà ta nằm ngủ
ráng trên giường. Tuy thức dậy trong một buổi sáng vui vẻ, nhưng ông cảm
thấy bất an vì biết tin chiều hôm đó, lúc 4 giờ rưởi chiều, vợ ông sẽ
dẫn tình nhân về ngủ tại ngay trên giường ngủ của hai người, mà không
biết phải làm sao.
Khác với Stephen, Bloom bắt đầu một ngày mới bằng một món thận xào
ngon, làm một số việc vặt như thường lệ và ra đứng nghỉ ngơi ở phía
trước. Sau đó, ông rời nhà xuống đường Eccles, đi dạo cửa hàng trước khi
viếng thăm một chỗ tắm công cộng và rồi dự một đám tang. Xong, ông tiếp
tục đi loanh quanh, khi chỗ này khi chỗ khác với nhiều thú vị khác
nhau, có lúc tránh gặp người tình của vợ, có lúc bị một tay cuồng tín
tôn giáo tống cổ khỏi một quán nhậu, rình xem trộm chỗ kín đàn bà và thủ
dâm, vân vân.
Stephen và Bloom tiêu biểu cho hai hình tượng mâu thuẫn nhau. Stephen
thì trẻ người non dạ, ích kỷ, nóng nảy, Bloom thì lớn tuổi, chín chắn,
khoan dung. Stephen thì trí thức, ưa kiến giải phân tích chuyện này
chuyện nọ, Bloom là loại người cảm tính. Stephen thì tự tín đến kiêu
ngạo, Bloom thì thụ động, thiếu quyết tâm.
Stephen và Bloom gặp nhau lúc 10 giờ, nơi Stephen đến thăm một người
đàn bà tên là Mina Purefoy. Trong lúc chị ta chuyển bụng cả ba ngày mà
chưa sinh được ở trên lầu thì Stephen và đám bạn anh phụ trách đở đẻ
lại rủ nhau nhận nhẹt lu bù. Bloom tự dưng mến Stephen, xem Stephen như
con mình, lo lắng cho sự an toàn của anh ta, nên đi theo anh ta đến khu
mãi dâm “Nighttown” hầu giúp anh ta khi cần. Nhưng chính Bloom cũng
chẳng hơn gì. Ông trải qua những cơn hoang tưởng vô thức, khao khát tình
dục, giằng xé nội tâm vì tôn giáo, nỗi hỗ thẹn vì bị vợ cắm sừng, mặc
cảm về sự mất dần tuổi thanh xuân và khả năng tình dục.
Sau đó, Bloom mang Stephen về nhà và trò chuyện tới khuya. Bloom nài
nĩ Stephen ở lại, nhưng anh ta không chịu. Khi lên giường ngủ với vợ –
bà vợ vừa trải qua một vụ gian dâm ban ngày – Bloom quay ra ngủ. Câu
chuyện chuyển qua Molly, nhân vật lần đầu xuất hiện bằng một màn đoạn
độc thoại nội tâm dài xoay quanh bản chất nhục cảm của nàng và những
người đàn ông đi qua đời nàng, kể cả ông chồng Bloom mà qua đó ta sẽ
hiểu là thực sự Molly vẫn yêu chồng.
Cốt truyện vừa đủ cho một truyện ngắn! Ấy thế mà nó kéo dài đến gần
…800 trang! Không biến cố. Không có chi tiết nào thực sự nổi bật và bất
ngờ. Vậy thì tác phẩm viết về cái gì? Ðủ thứ hổ lốn trên đời. Ðúng thế!
Các nhân vật đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nói, nhìn, đi tiểu, đi tắm …và
suy tưởng, rồi tưởng tượng, có lúc rơi vào ảo giác. Bất cứ cái gì cũng
gợi nên suy tưởng: triết lý, tôn giáo, tình dục, tình yêu, lịch sử, âm
nhạc, nghệ thuật, tâm linh, sáng tạo, niềm đau, nỗi khổ, sự bất lực,
chuyện nọ xọ chuyện kia. Ta hãy thử đọc vài giòng tóm tắt sau đây ở 2
chương 4 và chương 15:
- Chương 4 (Calypso): Bloom, chồng của Molly, cha của Milly. Thức
dậy, ông bận rộn sửa soạn bữa sáng cho vợ. Milly không có ở đó. Ông gửi
cô đi Mullingar, nơi có một sinh viên tên là Bannon chiều nào cũng đến,
vì biết vợ ông sẽ ngủ với tình nhân bà ta, Boylan, hôm nay ngay trong
nhà. Boylan thường hay đội mũ rơm, đi giày mày nâu vàng, quần xắn lên.
Molly thích đọc sách khiêu dâm, gặp chữ “metempsychosis”, bèn hỏi Bloom
nghĩa là gì, ông cố sức giải thích cho bà hiểu. Ông thích ăn lòng, thích
súp lòng gà, những lát tim hay gan chiên hay thận trừu nướng…Cuối
chương, Bloom đi ra phòng ngoài, đứng tiểu.
- Chương 15 (Circe): diễn ra ở khu mãi dâm Nighttown, nơi Stephen và
bạn bè kéo nhau tới. Bloom đi theo. Trong khi cố tìm bọn họ thì ông rơi
vào cơn hoang tưởng, cảm thấy mình bị đem ra xử trước tòa vì những tội
lỗi trong quá khứ, nỗi ám ảnh trừng phạt của Molly, và tưởng tượng mình
trở thành vua Ái Nhĩ Lan. Khi tìm ra Stephen trong nhà thổ, Bloom lại
thấy mình trở thành đàn bà và bị hành hạ bởi một bà mà bà này hóa ra lại
là đàn ông. Còn Stephen thì tưởng tượng bóng ma của bà mẹ hiện về cầu
xin anh trở lại đạo. Anh đập vỡ cái đèn treo, chạy ra đường và bị hai
người lính sỉ vả. Cuối chương, anh bị đánh ngã xuống đường bất tỉnh.
Bloom tới chăm sóc và mang anh ta về nhà.
Ðó là vài nét tóm tắt. Nhưng văn bản không đơn giản như thế. Tất cả
mọi thứ nằm trong một cấu trúc phức tạp đầy những nghĩa bóng, ẩn dụ và
trăm thứ khó hiểu khác. Chính vì thế mà theo những nhà nghiên cứu văn
học thì hiểu các nhân vật và tình tiết cốt truyện cũng như các đề mục
của nó chỉ mới là phân nửa của việc đọc Ulysses. Tác phẩm là
một cái gì lớn hơn việc đọc xem thử chuyện gì đã diễn ra và ý nghĩa của
nó như thế nào. Trả lời cho một độc giả là nhạc sĩ Arthur Laubenstein
thú nhận rằng ông không thể nào hiểu nổi Ulysses, Joyce trả lời “Giá trị của tác phẩm là ở văn phong mới mẻ của nó”. Ảnh hưởng của Ulysses trên
tiểu thuyết hiện đại ít dựa trên ý nghĩa thực sự của tác phẩm mà là dựa
trên phương cách mà nó tạo ra ý nghĩa. Rất nhiều ý định đậm nét được
Joyce đưa vào Ulysses như là một trong những lý do khiến cho
tác phẩm trở thành điểm đối chiếu cho chủ nghĩa hiện đại trong văn
chương thế giới. Khác với ý niệm cổ điển, một trong những điểm nền tảng
của chủ nghĩa hiện đại là niềm tin rằng không có sự phân biệt giữa hình
thức và nội dung. Mặt khác, nghệ thuật không phải là phản ảnh hiện thực
mà chỉ là nỗ lực nắm bắt một trạng huống nào đó của hiện thực. Chủ nghĩa
hiện đại nhấn mạnh đến cái mà José Ortega gọi là “dehumanization of
art” (phi-nhân-hóa nghệ thuật). Nghĩa là tác phẩm nghệ thuật không phải
là cái gì trực tiếp phản ảnh đời sống bên ngoài mà chỉ là một điều gì
được hình thành bởi tinh thần và kinh nghiệm của người nghệ sĩ và bởi
những quy ước hay những hành ngôn của cái xã hội đã sản sinh ra người
nghệ sĩ đó [6]ù.
James Joyce và Sylvia Beach bên ngoài cửa tiệm sách Shakespeare
và Công ty do Sylvia Beach làm chủ- tại Rue de l’Odeon -Paris, 1920.
Joyce muốn Ulysses là một “thiên sử thi” và là một cuộc
“phiêu lưu” đồng thời cũng được sử dụng như một loại “bách khoa tự
điển”, một loại bách khoa tự điển của những văn phong và phối cảnh
(styles and perspectives). Ðể thực hiện điều đó, ông kết văn bản của tác
phẩm vào trong mạng lưới rộng lớn có tổ chức gồm vô số thông tin giấu
ẩn, cấu thành những tương kết nội tại (internal interconnections) và các
ám dụ ngoại tại (external allusions). Tất cả tạo thành một thứ văn
xuôi mới lạ, đầy tính cách mạng. Ðó là một tổng hợp giữa kỹ thuật giòng ý
thức (stream-of-consciousness) và tính linh hoạt thay đổi bất chừng của
nó cùng với thể loại độc thoại nội tâm (internal monologue) trình bày
những tư tưởng đang diễn tiến với những dao động, những biến chuyển bất
ngờ của tâm trạng nhân vật. Thực ra, viết theo lối “giòng ý thức” không
phải là điều mới mẻ. Ta tìm thấy kỹ thuật này trong các tác phẩm của
Dickens, Dostoyevsky hay Virginia Woolf, vân vân…Nhưng trong Ulysses,
kỹ thuật đó chiếm ưu thế. Người kể chuyện không chỉ kể chuyện, mà nó
hành động y như là một phối trí viên vừa ở trong vừa ở ngoài văn bản có
nhiệm vụ phối trí mọi chuyển đổi bất thường như một ống kính vạn hoa của
nhưng thể loại văn, nhằm soi sáng các ý nghĩa, vọng âm, tính trêu cợt
hoặc các đối ảnh trong văn bản. Cũng giống như Picasso diễn tả một cảnh
trí bằng cách nhìn từ mọi phía, Joyce cố làm biến dạng sự vật, vặn vẹo
chúng một cách bông đùa với dụng ý nắm bắt chúng trong cái toàn thể. Văn
phong chuyển đổi bất ngờ tuy theo khung cảnh, trạng huống, tâm cảnh và
các ảo tượng tâm linh khác. T. S. Eliot gọi văn phong của Joyce trong Ulysses là một thứ “phản văn phong” (anti-style)[7]. Sau đây là ghi nhận sự chuyển đổi văn phong ở một vài chương:
- Chương 1(Telemachus): Stephen trầm tư trên bãi biển, loại văn giòng
ý thức trở nên khó hiểu, rối rắm, chớp nhoáng (fleeting) y như những ý
nghĩ rối rắm, đột xuất bất thường của anh ta.
- Chương 7 (Aeolus): Sử dụng một kỹ thuật hoàn toàn mới: những giòng
tin nổi bật (headline news) khi mô tả diễn tiến trong một nhà in. Mọi
chuyện diễn ra dưới “sức nặng” của những headlines, chữ to đậm
nét, y như chúng cứ nhảy phóc vào câu chuyện, lên tiếng nói tiêng của
nó. Chúng “hành động” y như những nhân vật, can thiệp vào những gì
“chúng” chứng kiến.
- Chương 10 (Wandering Rocks): gồm 18 tiểu đoạn liên quan nhau kể một
câu chuyện gì đó với sự hiện diện của một sốù nhân vật, nhưng chẳng có
một liên hệ luận lý hay thời gian nào giữa các sự kiện y như thể một
người mất trí nhớ kể chuyện đầu Ngô mình Sở, không đầu không đuôi, lẫn
lộn lung tung.
- Chương 11(Sirens): Chương mở đầu bởi chừng 60 mẫu câu ngắn, gọn y
như những đoạn “dạo khúc” (fugue) trước khi chuyển qua chủ đề chính. Kỹ
thuật ở chương này là âm nhạc, nên chứa đựng các đề mục về âm nhạc, thơ
ca trữ tình và tiếng động. Ngôn ngữ là một chuỗi liên tưởng đóng vai
trò như những nốt nhạc với vần, điệu, lập đi lập lại, có khi rất là vô
nghĩa như khi từ ngữ chuyển hẳn thành âm thanh (như impertinent insolence thành imperthnthn thnthnthn).
- Chương 13 (Nausicaa): là chương tục nhất. Cái tục nằm rải rác ở
nhiều chương, nhưng chương này được xem là cao điểm với các cảnh nhìn
trộm phụ nữ, thủ dâm, những suy tưởng về tình dục…Chính vì chương này mà
sở kiểm duyệt ra lệnh đình chỉ đăng tải Ulysses trên tạp chí “The Little Review” tháng 8/1920.
- Chương 14 (Oxen of the Sun): là chương cô đọng nhất, khó nhất và
đầy kỹ thuật. Nó tái hiện lại toàn bộ lịch sử của ngôn ngữ Anh văn qua 9
chặng phát triển (đồng thời là ẩn dụ của 9 tháng thai nghén trong bụng
người đàn bà) tiến đến một mớ hổ lốn các tiếng lóng Dublin, những nhận
xét dí dỏm, một đoạn trong sách phúc âm và nhiều thứ vô nghĩa khác.
Chẳng hạn như những giòng đầu chương, từ “Deshill Holles…hoopsa”, trang 383[1] (8 giòng): một loại thần chú cổ sơ; từ “Universally that …enjoined?” trang 383-384 (31 giòng): văn xuôi la tinh của sử gia La Mã Sallust và Tacitus; hay giữa chương từ “Before born babe bliss had…sorrowing one with other” trang 386 (57 giòng): văn xuôi lập lại âm đầu Anglo-Saxon; từ “However, as a matter of fact…ages yet to come” trang 416-418 (58 giòng): văn của sử gia Anh Thomas; từ “Meanwhile the skill…faithful servant” trang 420-421 (41 giòng): văn của Charles Dickens; từ “All off for abuster…cuối chương” 424-428 (khoảng hơn 4 trang): đầy cả tiếng lóng, thổ ngữ và thơ văn kiểu thơ con cóc.
- Chương 18 (Penelope): chương này bắt đầu bằng chữ YES và chấm dứt
cũng bằng chữ YES, có 8 “câu”, riêng “câu” đầu tiên có 2500 chữ, không
có một dấu ngắt câu nào y như một quả bóng lớn lăn tròn, lăn tròn với 4
hướng chính liên hệ đến các cơ phận nhạy cảm của phụ nữ là ngực
(breast), mông (arse), tử cung (womb) và âm đạo (cunt) được diễn tả bởi 4
từ because, bottom, woman và yes. Ðây cũng là một
chương tục nhưng lại có vẻ đúng đắn, chừng mực và lãng mạn nhất, diễn tả
tâm trạng của bà vợ Molly qua những cảm xúc rất riêng của bà với những
người đàn ông đi qua đời mình, kể cả ông chồng Bloom.
James Joyce 1919 – Zurich
Sự thay đổi giọng điệu (voices), văn phong cộng thêm vào đó là sự
nhại văn và ngay cả cách bố trí các trang giấy không phải là trò lập dị
mà là một ý định nghiêm túc của Joyce nhằm khêu gợi sự chú ý của độc giả
đến tác phẩm như là một tác vật văn chương (literary artifact)[8]: vừa
là sản phẩm của óc tưởng tượng cá nhân mà vừa như là một tổng hợp các
thành tố tu từ, ngôn ngữ, phản ảnh cách suy nghĩ của con người trong một
nền văn hóa riêng biệt nào đó. Rốt cuộc, Ulysses được xem như
là sự nhại văn (parody) và là một loại sử thi châm biếm (mock-epic) đầy
những nhân vật phản-diện và những kẻ thất bại. Có thể xem Ulysses là
một dự tính tái tạo các nhịp điệu cuộc sống bằng cách xây dựng một
truyện mà tất cả các phần tác động theo những cách khác nhau làm sao để
hoàn thành cùng một mục tiêu: phơi bày ý nghĩa của cuộc sống hiện đại.
Một trong những mô-típ trung tâm của tác phẩm, theo Patrick McCarthy, là
sự đụng độ (encounter). Những đụng độ diễn ra dưới nhiều hình thức:
nhân vật đụng độ nhân vật (Stephen vs Bloom/ Stephen vs Mulligan/Bloom
vs Boylan…), nhân vật đụng độ thực cảnh: báo chí, sách truyện, các tình
huống, sự kiện…, nhưng đụng độ điển hình nhất là đụng độ giữa nhân vật
và chính mình: (self-encounters). Nói như nhân vật Bloom trong Ulysses “Anh
nghĩ rằng anh sẽ thoát nhưng hóa ra là đâm sầm vào chính mình” (Think
you’re escaping and run into yourself) hay như nhân vật Stephen cho rằng
cuộc sống bao gồm những “gặp gỡ chính chúng ta” (meeting ourself). Ðộc
giả, khi đọc Ulysses, cũng là một cuộc đụng độ: đụng độ với văn bản trong vô số sự kiện, giá trị, những minh giải, phán đoán chứa đựng trong đó[9].
Ðiều quan trọng cần lưu ý: Ulysses được sáng tác trong một đối chiếu song song với tác phẩm của Homer (Homeric parallels), The Odyssey – tức là câu chuyện về Odyssey, mà người La Mã gọi là Ulysses,
và cuộc hành trình của ông sau cuộc chiến tranh Troy. Ðó là một cuộc du
hành kéo dài 10 năm cuối cùng được trở về nhà gặp lại người vợ chung
thủy chờ đợi và đứa con đã lớn của mình sau khi trải qua hết cuộc phiêu
lưu này đến phiêu lưu khác với đám thủy thủ của ông. Joyce dùng The Odyssey như
là một hệ thống cơ cấu lỏng lẻo (loose structural framework) cho tác
phẩm, sắp xếp các nhân vật và biến cố chung quanh mẫu người hùng của
Homer, trong đó Bloom được xem như Ulysses, Stephen như “con trai” của
ông là Telemachus và Molly như là bà vợ chung thủy Penelope. Tác phẩm
có 18 chương mang tên liên hệ đến những cuộc phiêu lưu của Odyssey khi
công bố từng kỳ trên “The Little Review”, nhưng bị bỏ đi khi xuất bản
thành sách, theo ý của Joyce. Dẫu vậy, Joyce vẫn tiếp tục dùng và kèm
theo chúng trong các “giản đồ” (schemata) dành cho bạn bè và các nhà
nghiên cứu. Bởi vậy, trong các tác phẩm nghiên cứu về Ulysses,
ta thấy các chương đều có tên. Chương đầu mang tên Telemachus, kế đó là
Nestor, Proteus, Calypso, Lotus Eaters, Hades, Eolus…và chương cuối cùng
là Penelope. Chương 1 “Telemachus” kể chuyện Stephen thức dậy và muốn
đi tìm một người cha tâm linh (spiritual father) tương tự như Telemachus
muốn đi tìm cha mình là Odyssey; chương 4 “Calypso” tả Bloom phục dịch
bà vợ y như trong Odyssey, Odyssey bị chúa đảo Calypso cầm tù; chương 12
“Cyclops”, Bloom tiết lộ nguồn gốc Do Thái của mình với một nhân vật
tên là Citizen tương tự như Odyssey tiết lộ tên thật của mình cho thần
khổng lồ Cyclops; chương cuối là độc thoại của bà vợ Molly diễn tả tâm
trạng phức tạp của bà về tình cảm, tình dục…nhưng cuối cùng vẫn yêu
chồng y như Penelope trong Odyssey chờ đợi chồng trở về, vân vân.
James Joyce qua nét vẽ của David Levine
Dù tác phẩm song hành với The Odyssey, mỗi một chương được
tổ chức theo giờ giấc, màu sắc, cảm giác, biểu tượng, kỹ thuật văn
chương, nghệ thuật và khoa học khác nhau. Chính điều này khiến tác phẩm
càng thêm phức tạp. Sự quan trọng trong việc đối chiếu Ulysses với Odyssey,
chủ yếu có tính cơ cấu: cung cấp cho Joyce một cái khung thích hợp đồng
thời cũng cung cấp cho độc giả và những nhà phê bình một danh pháp
(nomenclature) thích hợp: các tựa đề. Nhưng tại sao lại phải đối chiếu
với The Odyssey? Chỉ một thời gian ngắn sau khi Ulysses
xuất bản (1922), T.S. Eliot – một trong những người nhiệt tình ủng hộ
Joyce – cho rằng “Trong khi dùng huyền thoại, trong khi sử dụng sự đối
chiếu liên tục giữa tính đương đại và tính cổ truyền, Joyce đang theo
đuổi một phương pháp mà những nhà văn khác phải tiếp tục đi theo (…) Ðó
giản dị là một cách kiểm soát, một cách sắp xếp, một cách tạo hình dáng
và ý nghĩa cho cái toàn cảnh mênh mông của tính vô nghĩa và vô chính phủ
hiện là lịch sử đương đại”[10]. Nhiều nhà phê bình không đồng ý với
cách giải thích đó. Riêng Joyce, ông có cách giải thích khác. Joyce gọi
Odyssey là “đề mục đẹp nhất và bao trùm nhất” trong tất cả nền văn
chương thế giới. Ði vào chi tiết, ông cho rằng Ulysses hiện thân cho sự
tích chứa sống động nhất của tất cả mọi hoạt động nhân loại, do đó, đối
với ông, Homer trở thành một siêu tượng (archetype) cho nhân loại[11].
Thực ra, trong tác phẩm, ta thấy Joyce không chỉ sử dụng Homer mà là rất
nhiều nhân vật huyền thoại hậu-Homer khác như Icarus, Hamlet,
Shakespeare, Lucifer…Ðược hỏi tại sao ông đặt tựa đề là Ulysses,
Joyce trả lời : “Ðó là hệ thống làm việc của tôi”. Cách sử dụng các yếu
tố và hình tượng huyền thoại đối chiếu với hiện thực được Joyce thể
hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau. Ðó cũng là một trong những đặc điểm
của chủ nghĩa hiện đại: sự tương thuộc của một tác phẩm với những tác
phẩm khác cùng tác giả cũng như tương thuộc với nhiều tác phẩm có trước
của những tác giả khác.
Ðọc Ulysses
Marilyn Monroe đọc Ulysses
Ðược xem là tuyệt tác, nhưng đọc nó không dễ dàng gì, ngay cả đối với những người mà tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ. Ðọc Ulysses là
cả một công trình y như leo lên một hòn núi có tên là Ulysses
(climbing MountUlysses). Ðọc ở đây không còn là giải trí nữa. Theo Allen
B. Ruch, tác giả The Modern Word thì để đọc Ulysses,
phải theo một số bước căn bản[12]. Trước hết, phải lập một lịch trình
đọc, ít nhất là phải dành riêng nguyên một hay hai tháng hoàn toàn tự
do, chấp nhận điều đó y như chấp nhận dành thời gian để thực hiện một dự
án nào đó. Ðể có hứng thú, nên tìm một nhóm đọc (reading group) để giúp
đỡ lẫn nhau. Người ta cũng có thể tìm trên Internet, nơi có rất nhiều
nhóm thân hữu sẵn sàng tổ chức những nhóm đọc Ulysses. Và đừng lo lắng là sẽ không đọc được. Nhiều người vẫn xem chuyện đọc Ulysses y
như đọc một chuyện tếu. Bất cứ khi nào mà ta cảm thấy không hiểu gì hết
về một từ, một nhóm từ hay văn phong hay gì gì đó, thì bỏ ngay chúng đi
sang phần khác, vì không có ai dám tự hào là hiểu ngay Ulysses chỉ trong lần đọc đầu tiên.
Phải sửa soạn trước một không khí văn chương. Hay nhất là nên đọc A Portrait of the Artist as a Young Man,
cũng của Joyce, để làm quen. Tác phẩm này sẽ cho ta cái thú vị về văn
phong đặc biệt của Joyce và thêm vào đó, nó giới thiệu với ta về nhân
vật Stephen Dedalus và gia đình của anh ta. Sau đó là Dubliners. Tác phẩm này cho ta một ít kiến thức về các nhân vật phụ trong Ulysses. Ngoài ra, theo Ruch, ta cũng nên đọc hai đại tác phẩm khác là The Odyssey của Homer và Hamlet của Shakespeare, vốn được nhiều nhân vật trong Ulysses thảo luận đến, đặc biệt là trong chương “Scylla and Charybdis”. Thêm vào đó, ta nên đọc bài thơ ngắn “Who goes with Fergos” của Yeats. Bài thơ này thỉnh thoảng xuất hiện trong trí tưởng của Stephen và một số các thi ảnh của nó phảng phất trong Ulysses. Tất cả những điều này sẽ rất hữu ích trong việc giúp ta nắm vững các diễn biến trong truyện. Nhất là The Odyssey và tất cả các chương trong Ulysses đều
có thể có đối chiếu với các cuộc phiêu lưu của Ulysses. Ðó là một thế
giới của liên tưởng, ẩn dụ, các trò trêu cợt. Ðã thế, hầu hết những
thông tin để tra cứu, đối chiếu lại chẳng rõ ràng lắm ngay với những độc
giả chú tâm nhất cho nên cách hay nhất là phải đọc lại, thậm chí nghiên
cứu lại bằng cách tra cứu cái gọi là “Ulysses schemata” (giản đồ thông
tin Ulysses) do Joyce “hé lộ” vào năm 1920. Những thông tin này thường
nằm ẩn dấu dưới bản văn, khiến cho nó chứa đựng một sức năng động nội
tại. Dù vậy, theo lời khuyên của các học giả chuyên nghiên cứuUlysses thì độc giả lần đầu tiên đọc Ulysses không
cần phải có giản đồ các thông tin cũng như người ta thưởng thức âm nhạc
cổ điển mà không cần phải có kiến thức về lý thuyết hòa âm. Ulysses, cũng giống như trò chơi ô chữ, luôn luôn đợi chờ những kẻ thích tò mò.
Cuối cùng, nên tìm một tập sách hướng dẫn (guides) y như một cẩm nang
khi đi du lịch. Cuốn cẩm nang sẽ cung cấp cho ta một số thông tin về
các biến cố bên ngoài về chính trị, âm nhạc, lịch sử rất cần để hiểuUlysses. Hiện nay, những tác phẩm nghiên cứu về Joyce khá nhiều như The New Bloomsday Book của Harry Blamires, “Ulysses Annotated” của Don Gifford & Robert J. Seidman, “James Joyce’s Ulysses” củaStuart Gilbert, “Ulysses” của Hugh Kenner, “Ulysses Modern Critical Interpretations của Harold Bloom & William Goldman … Hai cuốn nên tìm, đó là New Bloomsday Book (giải thích chi tiết truyện) của Harry Blamires và Ulysses Annotated (được xem như một loại “kinh thánh Ulysses” = Ulysses bible) của Don Gifford.
Hiện nay, trên thị trường có 4 ấn bản:
- Ấn bản đầu tiên năm 1922. Ấn bản này, như đã nói, có rất nhiều sai sót.
- Ấn bản Ulysses “corrected and reset” năm 1961
- Ấn bản gây tranh cãi “Gabler Edition”
- Ấn bản “Reader’s Edition” là ấn bản mới nhất do Danis Rose biên
soạn. Cái đặc biệt của ấn bản này là viết lại văn bản của Joyce bằng
cách tách các câu dài thành ra những câu ngắn, dùng dấu gạch nối giữa
các từ kép và thêm các dấu ngắt câu trong “Penelope”, chương cuối và là
phần khó nhất của tác phẩm, có sự độc thoại của Molly. Tất nhiên, ấn bản
này tạo sự dễ hiểu cho những ai không thể đọc nổi Ulysses nguyên
bản. Nhưng người ta cảnh cáo rằng, nếu thấy bạn cầm ấn bản này trong
khuôn viên đại học, những kẻ hâm mộ Joyce sẽ ném đá vào mặt bạn ngay bởi
vì họ cho rằng ấn bản này là một sự “báng bổ” Joyce không thể chấp nhận
được.
Thách đố mới và dư luận
James Joyce sau khi phẫu thuật mắt.- Ảnh: Berenice Abbott
Trong lúc chính phủ Ái Nhĩ Lan và ban tổ chức “ReJoyce Dublin 2004”
đang hào hứng sửa soạn cho 100 năm ngày Bloomsday thì đầu năm 2004 xuất
hiện một phong trào bài xích Ulysses và James Joyce. Một số
nhà văn và nhà báo cho biết họ chán đến chết đi được khi phải đọc một
tác phẩm quá sức khó hiểu (impenetrable book) và sự tôn thờ nó quá đáng
như thế. Họ nói thẳng thừng ra rằng, bằng cách nâng ông ta lên vị thế
của một ông thần trong văn chương (literary God), những kẻ hâm mộ Joyce
đã làm hại đến các nhà văn Ái Nhĩ Lan khác và biến tên tuổi Joyce thành
một thứ kỹ nghệ – Joyce industry – mà mục đích là làm kinh doanh du lịch
hơn là vì giá trị văn chương đích thực của nó. Khai hỏa cho cuộc tấn
công Joyce lần này là Roddy Doyle. Ông chọn đúng vào ngày sinh nhật
Joyce được tổ chức tại New York vào đầu tháng 2/2004 để lên tiếng đả
kích.
“Ulysses lẽ ra có thể được thực hiện với một tay biên tập tốt. Quý vị biết rằng người ta luôn luôn xếp Ulysses trong
10 tác phẩm hàng đầu từ trước đến nay nhưng tôi ngờ rằng chẳng có mấy
ai trong số những người đó thực sự cảm xúc với nó. Tôi có đọc có 3 trang
của Finnegans Wake và thật là phí thời giờ dễ sợ. Dubliners là tác phẩm khá nhất của Joyce, còn Ulysses thì thật chẳng xứng đáng được kính trọng tí nào”. Ulysses, theo Doyle, là một tác phẩm “quá đáng (overrated), quá dài (overlong) và chẳng gây nên cảm xúc nào (unmoving)”.
Phát biểu bất ngờ của Doyle làm tất cả những người hâm mộ Joyce tại
buổi lễ chưng hửng. Vì người phát biểu không phải là một tay mơ nào đó
muốn nổi tiếng bằng cách tấn công thần tượng, mà là một khuôn mặt khá
nặng ký trong văn giới: Roddy Doyle là nhà văn hiện đại nổi tiếng nhất
Ái Nhĩ Lan hiện nay, giải Booker 1993 với Paddy Clarke, Ha Ha Ha và có một vở kịch được quay thành phim: The Commitments.
Không dừng ngang đó, Doyle tiếp tục tố cáo Joyce qua một cuộc phỏng
vấn trên tờ Sunday Tribune[13] với giọng điệu còn gay gắt hơn. Ông cho
rằng Joyce đã ném một cái bóng dài và độc hại trên sinh hoạt văn học Ái
Nhĩ Lan. “Nếu bạn là một nhà văn ở Dublin và bạn viết một trích đoạn đối
thoại, mọi người sẽ cho rằng bạn cuỗm nó từ Joyce. Cái ý tưởng cho
rằng ông ta nắm bắt được ngôn ngữ nói thường ngày của Dublin là một
điều vô nghĩa. Thực ra thì ông ta biết quái gì thổ âm Dublin. Cái đó y
như thể bạn đang xâm phạm vào lãnh vực của ông ta hoặc ông ta đang ngồi
trên vai bạn. Tôi thật bực mình”.
Theo Doyle, James Joyce chẳng phải là nhà văn Ái Nhĩ Lan hay nhất.
Vinh dự đó đáng lẽ phải về tay của Jennifer Johnston, một người tương
đối ít nổi tiếng, tác giả của The Captains and The Kings. Nhân
đó, Doyle đả kích luôn David Norris, thượng nghị sĩ cũng là một học giả
và là người cổ võ cho phong trào phục hồi Joyce. Theo ông, cái lễ hội
Bloomsday nên bỏ đi chừng năm năm để cho người ta khỏi phiền lòng khi
phải lên án hay đuổi ông ta hay cái gì na ná thế.
Quan điểm của Doyle được nhiều người tán thành. Nhà báo Kevin Myers viết trên tờ Times[14], diễn tả Ulysses như
là “một trong những ngõ cụt vô vọng nhất trong lịch sử văn chương. Ðó
là một tác phẩm dài 400.000 chữ, trong đó có lẽ có đến 250.000 chữ là
thừa”.
Nhà báo Sean Moncrieff, trên tờ “Irish Examiner”, cho rằng Ulysses sẽ
không bao giờ được xuất bản nếu nó được viết ngày hôm nay. “Chuyện gì
xảy ra trong Ulysses? Chẳng có quái gì cả. Bloom ăn sáng. Ði dự
một tang lễ. Ði lòng vòng quanh Dublin. Stephen Dedalus cũng thế. Nhậu
nhẹt say sưa và làm cái này cái nọ trông như một thằng khờ. Rồi cả hai
về nhà. Cứ thử gửi phần tóm lược nội dung đến cho bất cứ một nhà xuất
bản hiện đại nào rồi ta sẽ thấy chẳng có gì ráo”.
Flann O’Brien, nhà văn tên tuổi và nhà trào phúng, than thở “Tôi thề
có Trời, nếu tôi mà nghe cái tên Joyce đó thêm một lần nữa, chắc tôi
phải sùi bọt mép mà chết thôi”.
Những người nằm trong ban tổ chức “Bloomsday” lập tức phản bác. “Thật
không công minh chút nào khi cho rằng chẳng có ai xúc động khi đọc Ulysses. Nhiều người đọc Ulysses và
cảm động”, Helen Monaghan, giám đốc “James Joyce Center”, một viện bảo
tàng ở Dublin được lập ra để vinh danh tác giả và tác phẩm cho biết. “Ulysses là một mục tiêu rất dễ
tấn công. Nó nổi tiếng quá đến nỗi người ta muốn làm cho nó tan biến
đi” (…) “Mục đích của chúng tôi là tạo ra một sự hiểu biết về tác phẩm
của Joyce. Theo bà “bất cứ ai, không chỉ những người trí thức, đều có
thể tìm thấy sự thú vị khi đọc loại văn xuôi kỳ lạ của Joyce”
David Norris, người đã bị Doyle tấn công, cho rằng Doyle là một kẻ
điên rồ, một “tài năng xoàng”. Ông khẳng định: “Nhiều người cố tìm danh
tiếng bằng cách tấn công Joyce mà Doyle là một trong số đó” (…) “Chẳng
có gì để tôi phải xin lỗi xin phải về sự phô trương quá mức cần thiết
này (khi ca ngợi Joyce). Tại sao những kẻ phỉ báng Joyce lại có vẻ quá
rởm như thế. Người ta thưởng thức cái mà người ta thích thì có gì là sai
đâu? Joyce đã trở thành một hình tượng khổng lồ. Chúng ta là một dân
tộc ưa phá hoại, cứ thích đào tượng lên và chỉ ra rằng chúng có những
bàn chân bằng đất sét”[15]
Phản ứng của văn giới
Tượng James Joyce điêu khắc bởi Milton Hebald đặt tại nghĩa trang Fluntern ở Zurich.
Ảnh: Steffen Schmidt / EPA
Trong một bài báo có tựa đề “Genius or fallen idol?” in trên nhật báo
The Guardian[16], Sam Jones ghi lại ý kiến của một số nhà văn, nhà phê
bình văn học, nhà thơ về tác phẩm Ulysses sau những “thách đố mới” nói
trên qua một những cuộc phỏng vấn ngắn:
Terry Eagleton (giáo sư về lý thuyết văn hóa tại đại học Manchester):
Tôi đã đọc Ulysses nhiều lần. Thật là kỳ lạ khi tác phẩm trở thành một
văn bản quá được sùng kính như thế trong khi Joyce lại là một tay có
khuynh hướng bài xích tôn giáo (iconoclast). Có lần Joyce phát biểu rằng
ông có đầu óc của một người bán hàng tạp hóa, nhưng trong khi nó quá
tầm thường, quá bình dân và đầy cả thổ ngữ, thì đồng thời nó cũng rất bí
ẩn. Thế thì có quá đáng lắm không đối với một bản kinh văn? Này nhé,
Stephen nói trong tác phẩm: “Lịch sử là một cơn ác mộng mà tôi đang cố
gắng trốn ra”. Còn một số người ở Ái Nhĩ Lan thì nói rằng Ulysses là một
“cơn ác mộng mà họ đang cố gắng trốn ra”.
Christopher Cook (giám đốc nghệ thuật của Liên Hoan Văn Chương
Cheltenham): Tôi sợ khi phải nói rằng tôi chỉ có đọc nó có một lần ruỡi.
Tôi hiểu nó ít khó khăn hơn tôi đã từng nghĩ và không quá gay go như
tôi sợ. Ðó là một trong những tác phẩm bạn mua khi còn là sinh viên chưa
tốt nghiệp đại học và dường như nằm trên giá sách bạn nhiều năm không
ai rờ tới. Cái phiền khi đọc Joyce, cũng như đọc nhiều nhà văn lớn khác,
là khó có thể phân cách tác giả ra khỏi danh tiếng mà ông ta có.
Anne Enright (nhà văn): Tôi cho rằng có một số đoạn trong truyện là
rất hay và cảm động, nhưng nhiều người sẽ rất hạnh phúc nếu có những dấu
chỉ trong sách cho biết nơi nào thì phần độc thoại của Molly bắt đầu.
Tôi đã không được phép đọc nó khi tôi còn nhỏ. Tôi có hỏi mẹ tôi tại
sao, thì mẹ tôi nói rằng nó quá tục tĩu. Tôi bắt đầu lén lút đọc nó khi
còn rất nhỏ và vẫn còn thích. Ðiều phiền hà duy nhất với tác phẩm là cái
truyền thống Bloomsday. Là một nhà văn mà lại sống ở Dublin khi ngày
Bloomsday đến khiến ta cảm thấy mình giống như một con chuột thật trong
khu Disneyland.
Justin Cartwright (nhà văn): Tôi cho rằng đó là một tác phẩm thiên
tài. Tôi đã đọc một lần nhưng rồi đọc lại mỗi khi có một bài phê bình
nào vừa xuất hiện. Tôi cũng đã đọc Finnegans Wake và Dubliners, nhưngUlysses quả
thực là tác phẩm lớn nhất bằng tiếng Anh. Nó cho thấy một sự hiểu biết
và sử dụng ngôn ngữ đáng kinh ngạc, nhưng còn nhiều điều hơn thế. Viết
tức là xây dựng cốt truyện và văn phong mà Ulysses thì có cả
hai. Nó gây ấn tượng về ngôn ngữ và rất cảm động. Sự thể là hiện nay nó
vẫn còn bị chê bai cho thấy nó vẫn còn ảnh hưởng biết bao khi xuất hiện.
Fintan O’Toole (nhà phê bình): Thật là khoan khoái khi thấy rồi rốt cuộc một ai đó cũng thử tìm đọc Ulysses.
Lẽ ra Joyce không nên được đối xử như một tượng thánh và một tác phẩm
không nên bị giữ quá lâu trong sự sợ hãi như thế đến nỗi người ta sợ khi
phải đọc nó. Ý tôi muốn nói rằng tôi đã đọc nó hai lần và tôi thấy thật
cảm động. Quan hệ giữa Bloom và Molly Bloom thật sự là một trong những
chuyện tình vĩ đại. Lại hài hước nữa. Có lẽ điều đáng nói nhất về tác
phẩm là nó xử lý một trong những vấn nạn lớn của thế kỷ 20: chủ nghĩa
chống Do Thái.
Roy Foster (giáo sư lịch sử Ái Nhĩ Lan, đại học Oxford): Tôi rất ngưỡng mộ những tác phẩm của Roddy Doyle, nhưng Ulysses là
một tác phẩm tiên phong. Nó đã không thể gây nên bất cứ một ảnh hưởng
nào như đã có nếu như nó không được viết theo cách và với độ dài như
thế. Ðiểm hệ trọng của một tác phẩm lớn là nó không thỏa hiệp, nhưng Ulysses dường như vẫn còn cái hấp dẫn của một tác phẩm văn chương thiên tài. Nó vẫn là sách gối đầu giường của tôi[1] .
Craig Raine (nhà thơ và phụ giáo Anh văn tại đại học New Oxford): Tôi đã từng mang theo một cuốn Ulysses bất
cứ khi tôi đi đâu ngay cả khi tôi bị xe đụng. Hình như điều đó quan
trọng hơn cả mang được đồ lót sạch sẽ. Tôi cho rằng đó là một trong
những tác phẩm vĩ đại nhất đã được viết ra.
Thực ra, những tranh cãi về Joyce như thế không phải mới mẻ gì. Khi
tác phẩm được đăng từng kỳ trên “The Little Review”, dư luận đã ồn ào,
người bênh kẻ chống. Sau khi tác phẩm ra đời, càng ồn ào hơn nữa. Rất
nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu tên tuổi đã viết bài ca ngợi hoặc tấn công
tác phẩm. Người đầu tiên tấn công tác phẩm là Richard Aldington.
Aldington cho rằng Joyce chẳng qua là một nhà văn thuộc trường phái
đa-đa pha trộn với chủ nghĩa duy nhiên (naturalism). Nhưng người tấn
công mạnh mẽ nhất là gây thiệt hại nhiều nhất cho Joyce vào giai đoạn
đầu là một người bạn và cũng là người thuộc xu hướng hiện đại chủ nghĩa:
Wyndham Lewis. Lewis đồng ý rằng Ulysses là “hiện đại”, “tiến
bộ” nhưng chỉ trong cái khéo tay của một người thợ lành nghề, còn nội
dung của nó chỉ là cặn bã của chủ nghĩa duy nhiên trong văn chương thế
kỷ thứ 19 được lọc qua các triết lý bị ám ảnh vì thời gian của Freud,
Bergson và Einstein. Và người mạnh mẽ bênh vực cho Joyce là nhà thơ T.S.
Eliot. Theo Eliot, phương pháp của Joyce là “một bước tiến đến chỗ làm
cho thế giới hiện đại có thể trở nên thế giới của nghệ thuật”[17].
Những tranh cãi như thế tiếp tục mãi đến hiện nay. Có một điểm mà hầu như mọi người đều đồng ý: Ulysses chiếm
một vị trí trung tâm của lịch sử tiểu thuyết hiện đại, tương tự như vị
trí của tập thơ “The Waste Land” của T.S. Eliot (1888-1965) trong thi
ca. Joyce và Ulysses vẫn là đề tài được nghiên cứu nhiều nhất
trong giới học giả và phê bình văn chương hàn lâm và gây ảnh hưởng lên
nhiều nhà văn hiện đại (và có thể cả “hậu hiện đại”) như Virginia Woolf,
William Faulkner, Samuel Beckett, Vladimir Nabokov, Thomas Pynchon,
John Barth, Jorge Luis Borges; các nhà văn tân tiểu thuyết như Michel
Butor, Claude Mauriac, Raymond Queneau; các nhà văn Ðức như Alfred
Doblin, Hermann Broch. Và như nhà văn Norman Mailer nhận xét trong bài
diễn văn đọc trong cuộc hội thảo về Joyce năm 1980 tại Provincetowm,
bang Massachusetts, ngay cả những nhà văn, dù không chấp nhận cách viết
của Joyce, nhưng cũng chịu ảnh hưởng bởi các kiến thức của họ về các khả
thể văn chương mà Joyce đã mở ra qua các tác phẩm của ông[18].
Ðiều chắc chắn là Joyce hay Ulysses chẳng hề ảnh hưởng gì
đến văn chương Việt Nam. Chỉ trong thời gian gần đây, ta mới tìm thấy
đôi chút hơi hướm của Joyce trong một vài tác phẩm của Phạm Thị Hoài
(Man Nương, Thực đơn ngày Chủ nhật), Lê Thị Thấm Vân (Âm Vọng), Thuận
(Made in Viet Nam) và rải rác trong một số truyện ngắn của các nhà văn
trẻ. Thực tế thì Joyce không hợp với cái “tạng” của người Việt Namchúng
ta. Ðó là một lẽ. Lý do sâu xa hơn có lẽ là do nền văn chương của
Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử, không được tiếp cận nhanh chóng và tích
cực với các trào lưu văn chương quốc tế. Trong lúc ở các nước Tây
Phương, các trào lưu văn học hiện đại cũng như các tác giả được giới
thiệu rộng rãi trong công chúng, được đưa vào chương trình học ngay cả ở
cấp trung học, thì ở Việt Nam, học sinh và sinh viên vẫn cứ phải cặm
cụi học và thưởng thức những tác phẩm cổ điển. Cơ hồ như nguyên cả thế
kỷ 20, khí hậu văn chương Việt Nam dường như vẫn như thế: tà tà, chầm
chậm, buồn buồn. Thỉnh thoảng chợt xuất hiện một vài hiện tượng bất
thường (một tác giả hay một tác phẩm nào đó) như sao băng xẹt ngang bầu
trời, lóe sáng lên và …tắt ngủm!
Chẳng lạ gì mà những khuôn mặt như Joyce hay những tác phẩm như Ulysses đều
chẳng mấy ai biết và nếu có biết chăng cũng chỉ là biết cái tên. Cả tác
giả lẫn độc giả đều dị ứng với tất cả những gì mới và lạ. Mới quá và
lạ quá lại càng gây nên tâm trạng sợ hãi. Mọi người quên rằng những gì
mà ta xem là bình thường ngày hôm nay đã là rất mới và rất lạ và hoàn
toàn mới và hoàn toàn lạ đối với người Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ðược
sống trong một không khí như thế, nên người viết bài này dù có 2 cuốn
của Joyce: một là Ulysses và một là A Portrait of the Artist as a Young Man (mua từ một tiệm sách cũ) cũng chỉ để chưng. Thỉnh thoảng, có lật Ulysses ra xem. Ráng đọc thử đôi đoạn rồi lặng lẽ trả về chỗ cũ.
Chẳng biết đến khi nào thì mới có bản Việt dịch? Tôi độ chừng là
chẳng bao giờ. Người Anh, người Mỹ còn kêu là khó, huống gì người Việt.
Vả lại, văn hóa khác nhau. Cái mà người Tây Phương thích lại không phải
là cái chúng ta thích. Văn chương là để giải trí, để tiêu khiển, để
hiểu. Ðọc một tác phẩm để …chẳng hiểu gì cả thì quả là uổng công. Mà
muốn hiểu đôi chút lại phải chạy vòng quanh, nghĩa là nhờ qua sách này
sách nọ giải thích, theo lời dặn dò của những người mê Joyce. Và khi đọc
sách giải thích rồi thì đọc tác phẩm làm gì nữa? Thật là một công việc
vô ích. Nhưng nghĩ cho cùng, việc đi tìm chân lý cuộc đời tốn hao bao
giấy mực của nhân loại cũng vô ích có kém chi!
Vào thư viện, nhìn những cuốn sách đồ sộ nghiên cứu về Joyce nằm trên
giá sách, cuốn nào cuốn nấy đều tơi tả qua thời gian vì nhiều người sử
dụng, lòng bâng khuâng tự hỏi: người ta tìm gì ở trong đó? Bèn tò mò
muốn biết.
Bài viết này xuất phát từ chỗ tò mò đó.
Ðể kết thúc, xin dẫn lại một câu của Charles M. Sennott, biên tập
viên văn học của nhật báo Boston Globe, viết nhân 100 năm Bloomsday:
“Giống như thánh kinh, Ulysses được bàn đến nhiều hơn là được đọc”[19].
Xin được góp một chút “bàn” đó với độc giả Việt Nam.
Trần Hữu Thục
(3/2004)
[1] Xem website “ReJoyce Dublin 2004”
[2] Những thông tin về Bloomsday lấy từ các bản tin của BBC News, The Independent, Boston Globe các ngày 16 & 17/6/2004
[3] Richard Ellman, dẫn lại theo Patrick McCarthy, Ulysses, Portals of Discovery, nxb Twayne Publishers, Boston, 1990, tr. 9
[4] Patrick Kéchichian, Joyce signale que l’écriture peut témoigner d’un corps vivant, Le Monde 11/6/2004
[5] Hélène Cixous, Les traducteurs “ont osé joycer le texte”, Le Monde 11/6/2004
[6] Theo Patrick McCarthy, sđd, tr. 9-13
[7] Dẫn theo Richard Ellmann, The Backgrounds of Ulysses, trong James Joyce’s Ulysse, nhiều bài viết, nxb Chelsea House Publishers,( New York, New Haven,
Philadelphia), 1987, tr. 8
[8] Patrck McCarthy, sđd tr. 12. Artifact:
An object produced or shaped by human craft, especially a tool, weapon,
or ornament of archaeological or historical interest. (http://www.thefreedictionary.com/artifact).
[9] Xem Patrick McCarthy, sđ d, phần “Preface”. McCarthy là giáo sư
tại đại học Miami, một học giả chuyên nghiên cứu về Joyce. Tác phẩm
“Ulysses, Portals of Discovery” là một cuốn sách khá mỏng, nhưng đưa ra
một cái nhìn mới mẻ về Ulysses.
[10] T.S. Eliot, Ulysses, Order and Myth, dẫn theo Wolfgang Iser, trong “James Joyce’s Ulysses”, nxb Chelsea House Publishers, New York - New Haven –
Philadelphia, 1987 – tr. 25
[11] Wolfgang Iser, sđd, tr. 26
[12] Xem Website http://www.themodernword.com/joyce/joyce_works_ulysses.html
[13] Sunday Times 8/2/2004
[14] Times 11/2/04
[15] Những thông tin trên dựa vào các bản tin trên tờ The Guardian & BBC News ngày 10/2/2004
[16] The Guardian 10/2/2004
[17] Xem Patrck McCarthy, sđd, phần “Critical Reception”
[18] Dẫn theo Patrick McCarthy, sđd, tr. 12, 13
[19] And like the Bible, Ulysses is more talked about than actually read (Boston Globe, 16/6/2004)
nguồn VNBT
No comments:
Post a Comment