Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai.
Chia đôi thân xác tiên liền tục,
Nghe lắng tiền thân trở gót hài.
Như đáp
lại lòng mong mỏi của khách yêu thơ, trong quý II năm 1995, Nhà xuất bản Hội
Nhà Văn (Hà Nội) đã cho tái bản tập thơ MÊ HỒN CA của thi sĩ Đinh Hùng. Việc
làm ấy, lại một lần nữa, xác nhận thi tài của nhà thơ này. Thi phẩm Mê Hồn Ca được Nhà Xuất Bản Tiếng Phương Đông Hà Nội in lần đầu năm
1954, nhà sách Khai Trí Sài Gòn tái bản năm 1970 và lần này là lần in thứ ba.
Tập thơ đầu tay này của Đinh Hùng đã từng gây xôn xao một thời trong thi giới
không chỉ vì tài hoa của tác giả mà còn vì những nét lạ lùng kỳ bí trong thơ.
Tháng 7 năm 1995, Nhà Xuất Bản
Văn Học Hà Nội lại cho tái bản tập thơ ĐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ của Đinh Hùng. Hai
Nhà xuất bản của Nhà nước vào loại lớn nhất nước này đã tái bản thơ Đinh Hùng
cho thấy thơ anh giá trị nhường nào.
Trên đây
là bốn câu thơ tuyệt mệnh mà Đinh Hùng đã viết tại Trà Hoa trang Gia Định
cuối mùa hạ năm 1967, không lâu trước ngày anh đi vào cõi vĩnh hằng.
Đinh Hùng là con trai của cụ
Hàn Phụng, một gia đình trung lưu ở làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông (nay là Hà
Nội), nhưng từ lâu đã ra lập nghiệp tại Hà Nội. Đinh Hùng được hoài thai năm
1919 tại Philippines nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại
trại Trung Phụng gần tòa Khâm Thiên giám cũ ở Hà Nội. Đinh Hùng là con út của
một gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến,
Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh chỉ lớn hơn Đinh Hùng một tuổi, kết duyên cùng
thi sĩ Vũ Hoàng Chương.. Mới hơn mười tuổi, Đinh Hùng phải chịu liên tiếp ba
cái tang: năm 1931 người chị thứ ba là Tuyết Hồng, một nữ lưu tân tiến, hoa
khôi của Hà Nội, mới mười tám tuổi xuân đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn
giận tình duyên. Mấy tháng sau, thân phụ anh đau nặng rối thất lộc, tuổi chưa
đến 50. Ba năm sau nữa đến lượt người chị lớn nhất, tên Loan, cũng qua đời,
tuy đã lập gia đình nhưng hãy còn trẻ lắm. Những cái tang buổi thiếu thời ấy
đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tính của Đinh Hùng nên thơ anh thường đượm vẻ
ảm đạm bi thương đến tê tái cả tâm hồn.
Thuở bé Đinh Hùng học trường
Tiểu học Sinh Từ, rồi trường Trung học Bảo Hộ tức trường Bưởi, đậu bằng Cao
đẳng Tiểu học hạng Bình thứ nên được cấp học bổng để theo học ban chuyên
khoa. Nhưng một ngày đẹp trời kia ái tình bỗng nhiên chợt đến:
Có
chàng mang lòng thương
Đi
dạo muôn con đường.
Một
hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên
Tần Hương.
(Tần Hương – Đường vào tình sử)
Người đẹp ấy tên là Kiều Hương,
nhưng Đinh Hùng sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa lại là Tần
Hương. Mối tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc lắm
và chỉ là tình đơn phương nên khi nàng đi lấy chồng, Đinh Hùng cũng không
buồn lắm:
Ngày em mới bước chân ra,
Tuy
rằng cách mặt, lòng ta chưa sầu.
(Bài hát mùa thu – ĐVTS)
Nhưng dù sao thì đó cũng là kỷ
niệm buổi đầu đời nên không dễ gì dứt được mối tơ vương:
Tần Hương ơi Tần Hương,
Tên nàng như hoa đẹp.
Chàng là bướm tơ
vương,
Nên chàng là Hồ Điệp.
(Tần Hương – ĐVTS)
Do đó về sau, khi viết tiểu
thuyết, Đinh Hùng ký bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang.
Mối tình thứ hai mới thực sự
mãnh liệt và ghi dấu ấn suốt đời trong tâm khảm nhà thơ. Nàng là một cô bé họ
xa, tên Bích Liên, thỉnh thoảng đến chơi trại Trung Phụng của ông bà Hàn nên
Đinh Hùng có dịp quen thân. Thuở ấy
nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời:
Độ em còn trèo cây khế,
Vin hái quả xanh bên tường.
Có phải chúng mình còn bé
Cho nên đời rất thơm hương?
(Tiếc bướm hay Linh hồn Hoài Điệp – ĐVTS)
Vì tên nàng là Liên nên Đinh
Hùng viết:
Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa
xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy
hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén
bước trang đài tới gặp ta.
(Liên tưởng – ĐVTS)
Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng
cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé càng ngày càng đẹp, trên môi luôn
nở đóa hồng và cả một trời thu hiện lên trong mắt:
Nắng vàng năm xưa đã tắt,
Cô bé
ngày xưa lớn rồi.
Hoa hồng vừa nở trên môi,
Và một trời thu trong mắt.
(Tiếc
bướm – ĐVTS)
Hai người yêu nhau tha thiết
nhưng mối tình hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng,
sắc đẹp ngày càng kỳ ảo và huyền hoặc khiến Đinh Hùng say sưa ngây ngất,
trong khi đó thì sức khỏe của nàng hao mòn nhanh chóng rồi từ trần khoảng năm
1940. Đó là cái chết thứ tư của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong
khoảng thời gian chưa tới mười năm. Mất Liên, Đinh Hùng đau đớn như điên như
dại:
Qua
xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương
thầm đóa Bạch Liên.
(Cầu hồn – Mê Hồn Ca)
Từ đó Đinh Hùng viết những bài
thơ “Chiêu niệm”, tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương,
Diệu Thư, nào Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu
Hoài Thương Nữ, nào Thần Nữ, Kỳ Nữ vân vân… nhưng thực ra cũng chỉ có một
nàng Bích Liên mà thôi (1). Trong bài thơ “Kỳ Nữ” có những câu tuyệt hay:
Thấy cả
bóng một vầng đông thuở trước,
Cả
con đường sao mọc lúc ta đi.
Cả
chiều sương mây phủ lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng
thương nhớ.
(Mê hồn ca)
Nàng Liên chết, Đinh Hùng bỏ
trường mà đi, sống lang bạt kỳ hồ, khi thì dạy học ở Hà Đông, lúc thì gia
nhập một ban nhạc tài tử của sinh viên lên trình diễn tại hồ Ba Bể miền Bắc
Cạn. Đi đâu Hùng cũng mang theo tấm ảnh của nàng Liên. Trong một lá thư gửi
Huyền Kiêu, Đinh Hùng viết :“Đó là di vật cuối cùng của Liên, sự được nhìn
thấy duy nhất còn lại của người nằm dưới mộ. Liên mất rồi nhưng tôi không
chịu tin như vậy. Không. Nghìn lần không. Cái chết của hoa và ánh sáng, ngày
và mặt trời, nơi tôi là vĩnh viễn hoài nghi và phủ nhận. Bởi tôi vẫn ghen
tuông ghê gớm như khi nàng còn sống. Tấm hình đặt trên mặt bàn dạy học, tôi
úp sấp tấm hình xuống cho ngoài tôi, không một kẻ thứ hai nào được nhìn thấy
mặt trời…”.
Bích Liên mất, nhưng hình ảnh
của Liên, giọng nói của Liên mãi mãi còn âm vang trong tâm hồn nhà thơ, không
phút giây nào quên lãng:
Chao ôi ! Mỗi cánh sương run rẩy
Nghe cũng âm vang giọng nói người.
Và xác thân anh tuy còn đó
nhưng kể như đã chết rồi:
Và xác thân anh giữa cuộc
đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi.
Vì
trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười.
(Trái tim Hồng Ngọc – Nguyệt
san Vạn Hạnh số 13 năm 1966)
Cũng như các bạn trẻ khác, Đinh
Hùng đã có một thời niên thiếu thật đẹp “làm học trò mắt sáng với môi tươi”,
nhưng cậu học trò họ Đinh ấy đi học mà “hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp”,
rồi cũng “đã từng phen trèo cổng bỏ trường về” để đi đến những nơi chốn đầy
kỷ niệm mà sau này khó lòng quên được:
Riêng ta nhớ những trưa hè sắc đỏ,
Đường hoàng lan nắng động:
lối đi quen.
Nghìn bóng cây chen bóng mộng hư huyền,
Ta
đến đó lần đầu nghe rạo rực.
(Khi mới lớn – ĐVTS)
Rồi chiến cuộc xảy ra, mọi
người bị cuốn hút vào đó, cả nhà thơ họ Đinh cũng vậy. Cuối năm 1946, Đinh
Hùng lại rời Hà Nội, rồi khi Cống Thần, khi Chợ Đại, Hà Nam, lúc viết cho tờ
báo này, lúc vẽ cho tờ báo khác. Trong thời gian này, Đinh Hùng làm bài thơ
“Người nữ du kích Hải Kiến” trong đó có mấy câu khá hay:
Lòng gái rung theo bước lữ đoàn,
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan.
Chiêu dương bừng lửa trên gò má,
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan.
Ai đã gặp Đinh Hùng một lần thì khó lòng
quên được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn
tay đẹp như bàn tay con gái với những đường gân như suốt đời mệt mỏi. Ngón
tay dài, mềm mại và thon thon, rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi
lướt nhẹ trên chiếc vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn
in bóng một trời thơ diệu kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó
“vang vang mà nhừa nhựa, nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng
khói” (Hoàng Hương Trang). Ngay lúc
nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời và niềm
lưu luyến tình người.
Bên ngoài, Đinh Hùng bao giờ
cũng chải chuốt và trang trọng: tứ thời bát tiết lúc nào cũng complet –
cravate cho dù nóng chảy mỡ, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng
bởi chiếc cặp dày và nặng trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống
cho bằng được một vài ly để rồi say sưa nói về Aragon, Eluard, Baudelaire,
Rimbaud, Edgar Poe (2) hoặc về chuyện văn thơ không dứt.
Mặc Đỗ cho rằng “Đinh Hùng là
con người tài hoa. Từ vóc dáng, nét bút tới giọng nói, từ tuổi nhỏ cho đến
ngày lìa đời, Đinh Hùng không ngớt biểu lộ tư chất tài hoa”. Thật vậy, Đinh
Hùng không chỉ làm thơ, viết tiểu thuyết, viết kịch (3), làm báo mà còn soạn
nhạc, chơi đàn và vẽ nữa. Anh chơi đàn mandoline và kéo violon rất điệu nghệ,
đã từng tham gia trong các ban nhạc và đàn cho các phòng trà. Về họa, anh đã
tự tay vẽ tranh bìa cho hai tập thơ của mình (Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử)
và vẽ tranh làm nền cho các trang thơ Mê Hồn Ca.
Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm
:“Có những đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ
hẹp ở cửa ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi
quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng
và Văn Cao. Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng
mới có gan đối ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời” (4). Và cũng vì thế mà bạn
bè không ai cảm thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.
Đinh Hùng làm thơ rất sớm, từ
ngày còn đi học và có một hồn thơ kỳ ảo. Năm 34 tuổi đã in Mê Hồn Ca (NXB Tiếng Phương Đông Hà
Nội 1954) và bảy năm sau đó (1961) in Đường
Vào Tình Sử (Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn xuất bản).
Thi phẩm Mê Hồn Ca gồm bốn phần, không kể phần ngoại tập và một bài tựa ký
Nhà Xuất Bản, nhưng sau này Đinh Hùng chua thêm: Hồ Dzếnh. Thì ra chính Hồ
Dzếnh viết bài tựa này. Bốn phần ấy là: Nguyên Thủy, Thần Tượng, Chiêu Niệm
và Mê Hồn. Phần Ngoại Tập gồm bài thơ trường thiên “Thần tụng” và hai bài
khác: Truyện lòng và Bài hát mùa thu, ghi là trong tập thơ “Tuổi mộng”. Hai
bài này về sau in lại trong tập Đường Vào Tình Sử.
Đường Vào Tình Sử hoàn toàn là
một tập thơ tình gồm 60 bài và lá thư văn nghệ của Đoàn Thêm thay cho lời đề
từ. Đây là tập thơ tình tuyệt hay mà lời lời ý ý là những hàng châu ngọc:
Ôi
cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn,
Có nghìn năm quá khứ tiễn
nhau đi.
(Đường vào tình sử)
Ở vùng đồng chiêm ngoài Bắc,
vào mùa nước lớn ngập cả cánh đồng, mọi người phải đi lại bằng thuyền, ban
đêm đèn trên thuyền bập bềnh trôi trên sóng nước khiến Đinh Hùng nhớ đến đôi
mắt người yêu. Tưởng tượng thật phong phú và ý thơ bay bướm vô cùng:
Giấc mộng đêm nào cũng gió mưa,
Gối
chăn như hải đảo vô bờ.
Sóng dâng bốn vách sầu nghiêng bóng
Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa.
(Sóng
nước đồng chiêm – ĐVTS)
Nghĩ đến một ngày kia người yêu
sẽ đi lấy chồng, Đinh Hùng viết:
Nghe động bàn chân nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn
vương.
Em
đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
(Bao giờ em lấy
chồng? – ĐVTS)
Các bạn thơ đã từng tranh cãi
về giá trị của hai tập thơ này. Trong khi Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào tình
Sử thì Trần Phong Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói :“Mê Hồn Ca tuy
đặc biệt nhưng thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong
Giao thì nói :“Ai cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có mình cậu là khác”.
Rồi Trần Phong Giao khẳng định:“Trong tất cả những tác phẩm đã và sẽ in của
Đinh Hùng, gặp trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không
ngần ngại gì trong việc chọn lựa Mê Hồn Ca. Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh.
Vì đó là tất cả anh (5).
Nhận định về thi phẩm Mê Hồn
Ca, nhà nghiên cứu Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói
ít hiểu nhiều, cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên
những mảnh thực tại tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít
nhiều nơi các nhà thơ tượng trưng Pháp: Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn
Ca là thế giới của đắm đuối say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh
lùng, của nhiệm mầu huyền bí. Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mãnh liệt
và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền
ảo như những bài: Tìm bóng tử thần, Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên
trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh Hùng?” (Tôi đọc thơ).
Còn Cao Thế Dung thì “giá trị
lớn của thơ Đinh Hùng trước sau vẫn một Mê Hồn Ca. Thi phẩm ấy vốn như loài
dị thảo và như mười ngón tay của một nhan sắc từ dưới vực sâu chơi vơi giơ
lên cao mà với tìm cái tuyệt vời của tình ái. Mê Hồn Ca còn tiêu biểu cho một
thứ mỹ cảm bén nhạy và bềnh bồng giữa những yêu ma và huyền hoặc (Văn học
hiện đại).
Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn
Ca hơn Đường Vào Tình Sử và trong Mê Hồn Ca anh thích nhất Bài Ca Man Rợ vì
bài thơ này rất giàu vần điệu, chữ dùng táo bạo và gợi hình, nhạc thơ toàn
bài hùng mạnh một cách man rợ hợp với nhan đề bài thơ. Chữ dùng táo bạo và
gợi hình thì:
Và ta thấy
hiện nguyên lòng sơn dã:
Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương.
Ta
xót thương, ta căm giận, hung cuồng,
Ta gầm thét, rung
mấy trời thế sự.
Và lời thơ hùng mạnh:
Rồi
dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên
thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa
hoang loạn của lâu đài, đình tạ
Ta
thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một
mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.
Còn các bạn khác của Đinh Hùng
thì sao? Trưa ngày 23-8-1967 – một hôm trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ
họp mặt trong một quán nhỏ, Thanh Nam đọc bốn câu thơ mà anh rất thích:
Khi
tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở
tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn
ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.
Nhà thơ Kiên Giang khen thơ đẹp
và hay quá, nhưng khi hỏi xuất xứ thì Thanh Nam không nhớ rõ, chỉ biết đó là
thơ Đinh Hùng trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà đã hơn hai giờ chiều
mà Kiên Giang chưa vội ăn cơm, tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có
bốn câu ấy. Đó là bài Gặp nhau lần cuối và Kiên Giang rất thích 8 câu này ở
khổ 5-6 của bài thơ:
Mắt
lặng nhìn nhau từ dĩ vãng,
Chợt xanh màu áo nhớ thương xưa.
Bóng em,
khoảnh khắc thành hư ảo,
Buồn lướt hàng mi thấp thoáng mưa.
Từng nhớ, từng thương, từng chụm đầu,
Từng chung dòng lệ thấm
vai nhau.
Mà
trong mắt liếc (6) ngờ non ải,
Nhịp thở ân tình cũng biển dâu.
Còn Trần Tuấn Kiệt thì nhắc
lại: “Đối với tôi, tập Đường Vào Tình
Sử vẫn là tập thơ cao viễn hơn tập Mê
Hồn Ca nhiều… nhiều lắm vậy!”.
Vậy đó, khó mà nói được rằng Mê
Hồn Ca hay Đường Vào Tình Sử, tập thơ nào hay hơn mà chỉ có thể nói thích tập
nào hơn tùy theo sự cảm thụ nghệ thuật của mỗi người.
oOo
Ngày 24-8-1967 tức 19 tháng 7
năm Đinh Mùi, lúc 5 giờ sáng, Đinh Hùng đã rời bỏ bạn bè và người thân để đi
vào cơn trường mộng lúc mới 48 tuổi. Dường như anh linh cảm mình không thọ
nên lúc còn trẻ đã tưởng tượng một ngày kia, khi mình nhắm mắt xuôi tay, các
em sẽ về bên mộ mà tiếc thương khóc lóc:
Khi
anh chết, các em về đây nhé!
Vị
chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh
muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay
cầm hoa, xõa tóc đứng bên mồ.
…Anh tưởng niệm các em về một buổi,
Ở
bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu
rũ tóc, ngậm ngùi in khoé mắt.
(Cung đàn tưởng niệm – ĐVTS)
Tháng 7 năm 1967, bệnh tình của
Đinh Hùng trở nặng, trên nét mặt của người thơ đã phảng phất bóng dáng của tử
thần. Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, vì lòng liên tài, đã đánh xe đến tận nhà Đinh
Hùng, tình nguyện đưa anh vào bệnh viện Bình Dân để tự tay cứu chữa (7),
nhưng bệnh ung thư thì có thầy tiên thuốc thánh nào cứu nổi. Khi nhà thơ Tô
Kiều Ngân vào thăm thì “trước mắt tôi
không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn
mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay.
Người nằm đóchỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi
thở mệt nhọc, đang chờ mổ mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng
ta trầm mình trong nỗi cô đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai
gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ, nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa,
bị tách rời”. Có những người “vô danh” tình nguyện cho anh máu để đủ sức chịu
đựng giải phẫu, nhưng đến nơi thì anh đã đuối quá mà đi rồi.
“Trước giờ liệm Hùng, tôi giở
tấm vải trắng nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt
trắng xanh. Buồn quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế
cũng được, 48 năm miệt mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với
“mây trắng bay đầy gối”, với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền
với thơ, với rượu, kể ra đã thừa chất đẹp” (Tô Kiều Ngân).
Hôm đưa tang Đinh Hùng – chủ
nhật 27-8-1967 tức 22 tháng 7 năm Đinh Mùi - là một ngày trong tiết thu sơ,
bầu trời ảm đạm. Bạn bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa
trong lòng niềm tiếc thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh. “Bên
chiếc huyệt đào sẵn, Vũ Hoàng Chương gọi lớn “Đinh Hùng! Đinh Hùng!” nhưng
người thơ phong vận không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc
ngậm ngùi bên bờ huyệt, Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài.
Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên
nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá
nhỉ !” Tuấn nói “Đâu mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ !” (Ký giả
Lô-Răng).
Đinh Hùng mất, một ngôi sao
sáng của thi đàn đã tắt, một thiên tài đã vĩnh viễn ra đi, nhưng hồn thơ kỳ
ảo của anh vẫn long lanh trong hai viên ngọc Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử.
Đinh Hùng mất là một sự thiệt thòi lớn cho thơ, không gì bù đắp được, biết
tìm đâu một khuôn mặt thơ như của Đinh Hùng, “một hồn thơ đã lấy tình yêu làm
động lực, đã mượn sự chết làm đòn bẩy để vượt lên tuyệt đối, vươn tới vô
cùng”. Người yêu thơ luôn nghĩ rằng trong tuyển tập thi ca nổi tiếng là cuốn
“Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân mà không có tên Đinh Hùng là
một thiếu sót lớn, thật đáng tiếc vô cùng. Thời gian gần đây thơ Bùi Giáng,
Vũ Hoàng Chương đã lần lượt được tái bản, rồi cuối cùng cũng đến lượt Đinh
Hùng. Vậy đó, những người yêu thơ cũng như những nhà xuất bản nặng lòng với
sự nghiệp văn chương có thể nào bỏ qua những tập thơ như Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình
Sử. Gần đây nhất, bài thơ “Đường khuya trở bước” của Đinh Hùng được chọn
in vào cuốn “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20”.
Xin mượn lời Cao Thế Dung để
kết thúc bài này:
“Ai cũng phải công nhận rằng Đinh
Hùng là một thi nhân độc đáo. Không một nhà thơ nào có giọng Liêu Trai như
ông, không một nhà thơ nào có cái giọng phong tỏa lên hồn thơ mình những khói
hương nghi ngút như ông. Thơ Đinh Hùng như thể một hoang đường và ảo mộng.
Thơ Đinh Hùng còn là bản trường ca tình ái. Thơ Đinh Hùng quả là những ngôn
ngữ nhiệm mầu của tình yêu.
Thơ Đinh Hùng chất chứa một bản
sắc thơ rất bén nhạy (Kỳ nữ) và kết đọng cả ba yếu tố: Ái tình, Thiên nhiên
và Mộng ảo. Ba yếu tố ấy sinh thành trong cái không khí hồ ly và nỗi chết
không rời.
Đinh Hùng như một bông hoa kỳ
lạ, một thứ kim cương kết tụ từ huyệt sâu, từ non bồng của mộng ảo. Đinh Hùng
là một thiên tài, Mê Hồn Ca đã thể nhận điều đó. Đinh Hùng với Mê Hồn Ca như
bức họa có màu sắc âm ty và Liêu Trai, lại vừa như cung đàn bạc mệnh chứa thứ
âm thanh mê dại và kỳ ảo.
Ác Mộng
Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết
sử,
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.
Đời tàn tạ em đừng ca hát nữa:
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôị
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nóị
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi ! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.
Ta quên hết ! Ta sẽ làm Bạo Chúa,
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ !
Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm baỵ
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.
Ôi ! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gốị
Bao hoan lạc ! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê táị
|
Bao giờ em lấy chồng
Như bao người gái đến xuân thì.
Mỗi đêm say tỉnh vài cơn mộng,
Trở giấc, lòng ơi! buồn làm chi?
Ôi biết bao giờ em lấy chồng?
Đầu thu hay cuối một mùa đông?
Bên người có ánh trăng, đèn mới,
Em nhận thơ lòng tôi nữa không?
Hoa nở cô đơn, bóng động thềm,
Vườn xưa còn thoảng chút hương em.
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc,
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm.
Em cũng như làn hương phấn kia,
Gió về rồi đến buổi chia lỵ
Nhớ trong khung cửa, mong ngoài ngõ,
như kẻ xưa buồn lối phượng đi.
Nhớ buổi người yêu, kẻ hững hờ,
Em là thục nữ, chỉ mê thơ.
Còn lòng tôi đấy, em không rõ,
Chẳng đến dò thăm, chẳng muốn ngờ.
Mà chẳng tình chung cũng hẹn nhiều,
Lời em bay bướm, tưởng rằng yêu.
Vì ai làm đẹp mây trời thế?
Tôi đợi tin thu sớm lại chiều.
Em ướp hương vào những giấy thư,
Tôi hôn lên chữ một đôi tờ.
Nghĩ rằng: Em gửi hồn thơm đấy,
Là bởi lòng kia đã ước mơ.
Mơ ước hiền như truyện trẻ thơ,
Hoài nghi từng nét mực phai mờ.
Chữ Yêu lượn nét hoa kiều diễm,
Tưởng thấy nghìn đuôi mắt hẹn hò.
Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi,
Em đã xa như dĩ vãng rồị
Tình cũng quan san từ đáy mắt,
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi.
Nghe động bàn chân, nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
|
|
No comments:
Post a Comment