Nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Văn Thành, nguyên Viện phó 
Viện Sân khấu Điện ảnh, hiện là Phó ban lý luận Phê bình - Hội nghệ sĩ 
Sân khấu VN, tác giả ba giải thưởng về phê bình sân khấu 
TP - Nhiều thông tin và phát hiện lý thú về kịch Lưu 
Quang Vũ lần đầu được đưa ra bởi nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành nhân 
Liên hoan các vở diễn của Lưu Quang Vũ tháng 9 này.
Nhà phê bình Phạm Khải nhận xét, Lưu Quang Vũ có 
những câu thơ rất hay xen lẫn câu có phần dễ dãi. Còn kịch thì sao? Xem 
lại chục vở lần này, thấy chất văn học trong “Hồn Trương Ba da hàng 
thịt” đúng là đỉnh của Lưu Quang Vũ rồi.
 
Thật ra không phải đến Liên hoan (LH) này người ta mới nhận ra tính chất trồi sụt của kịch Lưu Quang Vũ. Cũng dễ hiểu thôi. 
Trong khoảng 1980 đến 1988 Lưu Quang Vũ hoàn thành gần 
50 kịch bản, thường xuyên cầm bút trong sự hối thúc của chục đoàn. Trong
 tâm thế như vậy thử hỏi làm sao có điều kiện nghiền ngẫm cấu tứ, lựa 
chọn ngôn từ. Có mà tài thánh.
Việc cho ra đời liên tiếp loạt kịch bản khác nhau tất 
dẫn đến tình trạng bất như ý. Trong khi nghệ thuật không chấp nhận bất 
cứ sự nhân nhượng thỏa hiệp nào.
Người ta từng nói đến sự tận hiến của những nghệ sĩ lớn
 trong hành trình sáng tạo. Mà không cứ nghệ thuật. Trên đời này cái 
hoàn mỹ, cái hay, cái tốt vẫn cực kỳ hiếm hoi. Những thứ trung bình, 
loàng xoàng luôn thuộc về số nhiều. 
Con nhà nòi, sẵn năng khiếu từ nhỏ, ý chí mạnh mẽ, 
không phải Lưu Quang Vũ không vật vã kháng cự lại thách thức nghiệt ngã 
này. Trong những khoảnh khắc thăng hoa nhất, Lưu Quang Vũ đã bay vút 
lên, tiếp chạm tới biên giới của cái tuyệt phẩm vốn mong manh, dễ tan 
biến để có được Hồn Trương Ba. Thế cũng là may mắn lắm rồi. 
May cho Vũ và cả chúng ta, một lần trong đời chạm tay 
được Hồn Trương Ba lừng lững. Thực ra đây là tập đại thành mà Vũ có công
 hút nhụy từ kho tàng tuồng đồ dân gian, có cả hình bóng Con nai đen của
 Nguyễn Đình Thi mà một thời Vũ say mê. 
Còn lại những vở được tiếng thành công như Nguồn sáng 
trong đời, Điều không thể mất, Lời thề thứ 9 cũng chỉ nhỉnh lên ở chiều 
cạnh này khác. Không kể nhiều vở tầm tầm mà chính Vũ chắc chắn không ưng
 ý.
Đến với chèo, với Nàng Si-ta, Lưu Quang Vũ làm náo loạn
 hình thức sân khấu truyền thống này. Gây tranh luận dữ dội giữa hai 
phía ủng hộ và phản đối. Đoàn Chèo Hà Nội hồi ấy còn được mệnh danh Đoàn
 Chèo Si-ta. Cặp diễn viên tài sắc lúng liếng Quốc Chiêm- Lâm Bằng sánh 
vai nhau dưới quầng sáng nhà hát đã thôi miên cả vạn khán giả!
Đến bây giờ hai nghệ sĩ ấy đã bên này dốc cuộc đời vậy 
mà lần tái hồi Nàng Si-ta (không phải LH) vẫn làm bao khán giả xúc động.
 Nhưng chính những ngôi sao này, hồi chèo Hà Nội dựng kịch bản Trời xanh
 mái phố (1981) cũng của Lưu Quang Vũ, chẳng ai ngó ngàng. Ngay Nhà hát 
Kịch VN với đội ngũ nghệ sĩ khỏi cần quảng cáo, trước khi gây chấn động 
trong ngoài nước với Hồn Trương Ba thì cũng có lúc nếm mùi thất bại khi 
đụng tay vào Cầu vồng của Lưu Quang Vũ, dù thay tên gọi mới để gợi khơi 
hiếu kỳ thành vở T15 đi về đâu mà rồi cũng cam phận T15 đi vào kho! Sống
 chung với bụi bặm và quên lãng.
Phân tích kỹ hơn vào kịch bản Lưu Quang Vũ, còn có thể 
vạch ra dấu hiệu của sự trùng lặp. Vũ rất chú ý cách làm hấp dẫn người 
xem. Nhưng trong chiều hướng này, anh lại sa đà đến mức quen tay, dùng 
đi dùng lại một vài lối gây tạo kịch tính theo kiểu vụ án hóa cốt 
truyện. Nhiều vở dù khai thác đề tài ngỡ không dính dấp gì đến chuyện 
điều tra làm án  nhưng cây bút đa tài này cũng biết biến ảo thành kịch 
pha màu vụ án.
Chẳng hạn Mùa hạ cuối cùng- nhiều người hồn nhiên cho 
là kịch về vấn nạn trong giáo dục, nhân vật chủ yếu là thầy giáo và học 
sinh. Nhưng khởi đầu của tấn kịch này vẫn từ sự cố cậu học sinh lớp 12 
bỏ thi vì đề bị lộ. 
Lời thề thứ 9 thực chất cũng là kịch vụ án. Về những 
người lính dám vi phạm kỷ luật để đi phá một vụ án oan sai ở quê hương 
mình. Cứ như vậy chuyện nọ xọ chuyện kia, tính căng thẳng của kịch càng 
lúc càng lên cao. Kiểu gây tạo xung đột vụ án còn bắt gặp ở Hai ngàn 
ngày oan trái (tức Trái tim trong trắng), Thủ phạm là ai, Ông không phải
 bố tôi, Đôi dòng sữa me…Kể cả Tôi và chúng ta đầy ắp tính chính luận 
cũng không thiếu cảnh bắt bớ vào tù kiện cáo, minh oan…
Ngay vệt khai thác cổ tích huyền thoại dân gian như 
Nàng Si-ta, Lời nói dối cuối cùng cho đến cả Hồn Trương Ba tầm cỡ thì 
hơi hướng kịch vụ án vốn rất quen thuộc với kịch pháp của Lưu Quang Vũ 
vẫn thấp thoáng.
LH lần này sẽ thành công hơn nếu chọn lựa kịch bản kỹ càng chứ không đưa đi những tiết mục có sẵn?
Việc xác định kịch bản nào xuất sắc, đáng dàn dựng phụ 
thuộc tầm nhìn và sở thích của lãnh đạo các đoàn. Hơn nữa lâu nay việc 
đánh giá chất lượng cao thấp trong kịch Lưu Quang Vũ dường như vẫn còn 
bỏ ngỏ ngoại trừ Hồn Trương Ba chói lên như một đỉnh Côn Sơn!
Không phải không có ý kiến nhận xét kịch Lưu Quang 
Vũ nổi lên chủ yếu do gặp thời và nhất là tác giả biết gãi đúng chỗ ngứa
 của công chúng. Ông có ý kiến gì khác không?
Tìm hiểu đặc điểm phong cách nghệ thuật Lưu Quang Vũ 
trên cơ sở đó xác lập giá trị của từng kịch bản là chuyện chẳng hề đơn 
giản. 
J.J.Rousseau từng tổng kết một cách cay đắng rằng “Viết
 ra một vở kịch thật khó. Nhưng đưa vở kịch đến nhà hát để dàn dựng lại 
là một vở kịch thứ hai khó khăn gấp bội!”. Lưu Quang Vũ thành công với 
thơ và không thật thành công với truyện rồi tình thế xô đẩy anh về Tạp 
chí Sân khấu làm ký giả kịch trường, đánh thức niềm say mê viết kịch, 
giữa bối cảnh quanh mình toàn cây đa cây đề sừng sỏ. Sự khôn ngoan đáng 
nể phục là Vũ chọn được lối vào nghề riêng. Đó là sự nắm bắt bằng được 
tâm lý của khán giả đương thời, cố đi guốc vào bụng để xem họ khát thèm 
cái gì, ham muốn cái gì. 
Nhiều lần trong vai khán giả lăn lộn, Vũ nhận ra rằng 
bộ phận đông nhất của công chúng sân khấu là những người bình dân thấp 
bé chịu nhiều thiệt thòi oan ức. Họ đến với rạp hát để tìm sự an ủi, sẻ 
chia hoặc trút xả niềm riêng bức bối. Chính vì vậy Lưu Quang Vũ thường 
chỉ viết kịch về những điều mà đám đông công chúng ấy bức xúc. Điều này 
giải thích vì sao Vũ nhận đặt hàng của các đơn vị nghệ thuật khắp nơi kể
 cả địa phương ở xa, vì anh khôn ngoan tóm bắt được những đòi hỏi tha 
thiết của công chúng qua sự đặt hàng này rồi đáp ứng. 
Có phải thế chăng, nhiều kịch bản của Vũ chỉ xoay quanh
 sự đối đầu giữa đám đông nghèo khổ bất hạnh bị chà đạp với những kẻ có 
chức quyền, có tiền…Đối thoại trong kịch Vũ được đám đông bình dân đón 
nhận một cách xúc động hoặc hả hê khoái chí là do Vũ biết nhắm vào những
 nỗi niềm đau đớn muốn được bày tỏ ra thậm chí phản ứng bột phát.
Thật dễ hiểu, đám đông này đến lượt mình rủ nhau lũ 
lượt kéo đến rạp xem kịch Vũ để hy vọng trong khoảng thời gian ngắn ngủi
 2,3 giờ, sự căng thẳng được xoa dịu, nỗi niềm uất ức được vơi khuây 
giải tỏa.Trên phương diện này, ý kiến Lưu Quang Vũ biết dùng kịch để gãi
 ngứa của đám đông là có lý! Không tin hãy bỏ thời gian đến với LH đang 
diễn ra sẽ thấy ngay. Khán giả vỗ tay rất hào phóng với những lời thoại 
mà có thể người tỉnh táo và lịch lãm sẽ chẳng thấy đáng chú ý mấy. Đoạn 
thoại của bà mẹ với cô con dâu tương lai cùng gã bảo vệ hách dịch trong 
Lời thề thứ 9 là một thí dụ. 
Đi sâu hơn có thể thấy Vũ thật tài tình và bợm bãi khi 
sử dụng ngôn từ đầy hiệu quả khiêu khích. Không ít lớp diễn, các nhân 
vật đối thoại như đi trên dây cao, thật nguy hiểm. Người nghe có khi rợn
 gáy vì những câu chát chúa văng mạng, chẳng hạn lời của anh lính trẻ 
Đôn sứt trong Lời thề thứ 9, tiến lên tiền đài sàn diễn hướng về khán 
giả “nhân dân ta cứ được nói quá lên là anh hùng nhưng thực ra hèn 
lắm!”. Trước đó tác giả khôn khéo ném cho anh sợi dây bảo hiểm là động 
cơ hành động trong sáng cộng với thành tích chiến đấu dũng cảm. Rồi ngay
 sau đó bà mẹ lại kịp uốn chỉnh “Dân không hỏng đâu con ơi”. Anh bạn tôi
 ngồi cạnh thì thầm “Lưu Quang Vũ đúng là siêu nghệ, vừa đấm lại vừa 
xoa!”.
Ở lĩnh vực sân khấu và điện ảnh xưa nay người ta vẫn quan niệm khán giả bao giờ cũng đúng?
Chưa bao giờ như hiện nay, sự phân hóa công chúng thật 
phức tạp và gấp gáp. Chỉ nói riêng khán giả của LH Lưu Quang Vũ lần này,
 qua quan sát của tôi thì dường như đa phần tuổi trung niên trở lên, 
thuộc lớp đại chúng bình dân không mấy dư dật tài chính. Sở thích của họ
 chắc chắn bị quy định bởi địa vị và trình độ, mức sống. Để làm sáng tỏ 
bộ phận khán giả này, không thể không đề cập tầm mức dân trí của công 
chúng đại chúng hiện nay nhất là khi ngưỡng tiếp nhận của họ vẫn còn đậm
 nét duy cảm vốn có của người Việt truyền thống. 
Hơn nữa đây là khán giả phía Bắc chứ phía Nam, TPHCM 
theo tìm hiểu của tôi lại hình thành một ngưỡng tiếp nhận và phản ứng 
nghệ thuật mang đặc điểm riêng của mảnh đất phương Nam đầy nắng gió, 
thông thoáng, cởi mở khi tiếp nhận những luồng ảnh hưởng thế giới tràn 
vào. 
Điều phân biệt rõ rệt nhất là lớp người bình dân phía 
Bắc quá quen với lối hưởng thụ nghệ thuật kiểu bao cấp. Còn khán giả 
phía Nam quen tự lựa chọn chương trình, bỏ tiền mua vé. 
Trong quá khứ và ngay cả hôm nay, kịch Lưu Quang Vũ đã 
thỏa mãn được đám đông đại chúng phía Bắc. Như đã nói, bởi phần nào nó 
tạo cơ hội cho họ được an ủi, giải tỏa, được rưng rưng nước mắt, được hả
 hê, khoái chí khi nghe những lời thoại gãi đúng chỗ ngứa khiến họ lâng 
lâng rạo rực dù chỉ mấy tiếng đồng hồ rồi sau đó lại phải đối mặt bao 
khó khăn toan tính của cuộc mưu sinh. 
Nhưng nghệ sĩ chân chính và tương lai của nền sân khấu 
hiện đại lại không bằng lòng với cái ngưỡng vừa đủ ấy, lằn ranh giới hạn
 ấy. Đây lại là câu chuyện khác xin trở lại vào một dịp khác.
Nguyễn Thành 

No comments:
Post a Comment