Dòng văn học Mỹ da đen ra đời trong đau thương. Lịch sử của nó gắn chặt với lịch sử cộng đồng người Mỹ da đen.
Việc
nữ văn sĩ Mỹ Toni Morrison được trao giải Nobel văn học năm 1993 là một
thắng lợi của cộng đồng người Mỹ da đen. Đây cũng là sự thừa nhận đối
với văn học Mỹ da đen, một dòng văn học chứa đầy “thực trạng Mỹ”. Bình
luận về sự kiện này, tiến sĩ Henry Louis Gates – chủ tịch Hội nghiên cứu người Mỹ gốc Phi
nói: “Đây là một ngày vĩ đại đối với người Mỹ da đen và người Mỹ nói
chung. Hai trăm năm trước, truyền thống văn học của người Mỹ gốc Phi đã
nảy sinh dưới dạng chuyện kể của những người nô lệ. Giờ đây nhà văn vĩ
đại nhất của chúng ta (Người Mỹ da đen) đã được trao giải thưởng Nobel”
(1).
Sáng tác của Tony Morrison tiếp tục kế
thừa đề tài về đời sống người da đen trong xã hội Mỹ, với âm hưởng nhức
nhối “nỗi đau da đen” từ bao năm vẫn tuôn chảy trong các tác phẩm của
nhà văn Mỹ gốc Phi. Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tony Morríon là Đôi mắt xanh nhất (The Bluest Eyes-1970) đến Sula (1974), Bài ca Xalômông (The Song of Salomong-1977), Được yêu (2) (Beloved-1983), Bé Ta (Tar Baby-1977) và Jazz
(1992) tất cả đều thấm đượm một tinh thần nhân văn cao cả. Các nhân vật
chính là những con người khắc khoải, lo âu trong cuộc sống đấu tranh
chống lại những chính sách sai trái của một xã hội đã được xây dựng trên
cơ sở những thành kiến chủng tộc. Cuốn tiểu luận văn học Diễn trò trong bóng tối(Playing
in the Dark-1992) của bà là một cuốn sách rất nổi tiếng, đề cập đến vị
trí của dòng văn học da đen trong nền văn học Mỹ.
Với giải Nobel của Toni Morrison, dòng
văn học Mỹ da đen đã được khẳng định sau những năm dài chịu nhiều thua
thiệt. Từ đỉnh cao mà Toni Morrison đã đạt tới, chúng ta có thể hình
dung những nét chính về quá trình hình thành và phát triển của dòng văn
học Mỹ da đen như sau:
Dòng văn học Mỹ da đen ra đời trong đau
thương. Lịch sử của nó gắn chặt với lịch sử cộng đồng người Mỹ da đen.
Người Phi châu được đưa tới Bắc Mỹ trong những chuyến tàu buôn nô lệ vào
các thế kỷ XVII, XVIII. Mồ hôi và máu của họ đã đổ suốt hàng trăm năm
qua để góp phần làm nên một nước Mỹ hùng cường. Thế nhưng, người da đen
vẫn bị phân biệt đối xử hết sức nặng nề. Mặc dù Bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệđã
được Tổng thống Lincoln công bố từ năm 1863, nhưng cho đến nay, trong
mắt nhiều người Mỹ da trắng, thì người Mỹ da đen vẫn là hạng hạ lưu.
Cuộc đấu tranh để khẳng định giá trị con
người, trước hết được thể hiện trong cuộc đấu tranh nhằm bảo tồn và phổ
biến nền văn hóa da đen ở Mỹ. Công việc này đã được nhiều học giả da
trắng cộng tác, hỗ trợ. Nền văn hóa da đen được bảo lưu đầy đủ nhất ở
các trường học và ở những thư viện lớn. theo số liệu của cuốn The Black American Writer(3),
thì ở trường đại học Harvard có trên 30.000 tư liệu, bao gồm những sưu
tập rất có giá trị. Chi nhánh Arthur Schomburg của Thư viện công cộng
New York có trên 11.000 cuốn sách, 3.000 bản thảo và 2.000 tài liệu in
và chép tay. Cho đến cuối những năm năm mươi của thế kỷ XX, phần lớn
những tư liệu đó vẫn còn chưa được khảo cứu. Chúng thực sự là những kho
tàng vô giá.
Việc phục hưng nền văn hóa da đen ở Mỹ
chỉ thực sự diễn ra trong những năm 60. Các trường đại học Mỹ đi đầu
trong việc nghiên cứu một cách có hệ thống và phổ biến nền văn hóa da
đen, đưa nó vào chương trình giảng dạy. Trường đại học Yale có những
trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa da đen.Các trường đại học
Atlanta, đại học Columbia, đai học Fisk… có các tiểu ban chuyên trách về
văn hóa –văn học da đen, và họ đã công bố nhiều công trình nghiên cứu
nối tiếng, đã biên soạn nhiều chuyên san phục vụ cho việc học tập của
sinh viên các ngành khoa học xã hội. Khi những nguồn gốc đầu tiên của
nền văn hóa da đen đã được nghiên cứu, và giá trị của chúng được khẳng
định, thì đó là một trong những chiều hướng chủ yếu để làm thay đổi suy
nghĩ của người Mỹ da trắng. Như vậy, chính văn hóa là nhịp cầu dẫn tới
sự hòa nhập và văn học là tiếng chuông làm thức tỉnh lương tâm con
người.
Từ thế kỷ XVIII, đã xuất hiện những
người Mỹ gốc Phi cầm bút, viết những tác phẩm thể hiện nỗi khắc khoải nô
lệ của chính bản thân mình và của đồng bào mình. Olaudah (khoảng 1745
đến 1796) và Jupiter Hammon (khoảng 1720 đến 1800) là hai tác giả da đen
nổi tiếng ở thời thuộc địa. Tác phẩm của họ là tiếng nói đầy xúc động
và ai oán về thân phận người nô lệ ở Mỹ, được xem là sự mở đầu cho dòng
văn học da đen vào những thế kỷ sau. Sang thế kỷ XIX, các tác giả Mỹ da
đen đã thực sự có tiếng nói riêng của mình, đặc biệt là sau cuộc chiến
tranh nội chiến 1861-1865, cuộc chiến tranh giải phóng nô lệ của phe
miền Bắc. Những nhà văn da đen nổi bật nhất ở thế kỷ này, trước hết là
hai nữ nhà văn : Harriet Jacob (1818-1896) với bút danh là Linda Brent,
tác phẩm “ Những chuyện xảy ra trong đời của một cô gái nô lệ”; Harriet Wilson (1807-1870) với bút danh là Out Nig, tác phẩm “Phác thảo về cuộc đời một người da đen tự do”. Frederick Douglass(1817-1895), một người nhiệt thành chống chế độ nô lệ, nổi tiếng với cuốn sách “ Chuyện kể về cuộc đời Fredrick Douglass, một nô lệ Mỹ”. Booker T. Washington (1856-1915) rất thành công với cuốn“Đứng dậy từ kiếp nô lệ”.Dubois(1868-1963) rất nổi tiếng với cuốn “ Những linh hồn da đen”.
Vào thế kỷ XX, dòng văn học Mỹ da đen đã phát triển mạnh mẽ trong một
bối cảnh mới, gắn với sự bùng nổ của những sắc thái văn hóa có nguồn gốc
từ Phi châu, như nhạc Jazz và sân khấu. Những tác giả nổi tiếng nhất
của thế kỷ nàylà Jean Tooner (1899-1967),R.Wright(1908-1960), Zora
N.Hurston (1914-1994), James Baldwin (1924-1987), Ralph W.Ellíon
(1914-1994), Toni Morrison (1931)…
Dòng văn học Mỹ da đen bắt rễ từ nền văn
hóa da đen và có sự kết hợp với những truyền thống văn học Mỹ. Chính
điểm này tạo nên bản sác văn học của nó. Các nhà văn da đen đã vận dụng
các truyền thống văn học Anh- Mỹ một cách sáng tạo khi viết tác phẩm của
mình. Càng về sau này, khả năng sử dụng tiếng Anh văn học của họ càng
trở nên trau chuốt, với những từ tượng thanh gợi hình ảnh rất tự do và
phóng túng(đặc biệt là trong thơ). Trong văn học cũng không còn tồn tại
lối diễn đạt hời hợt với những nhân vật nhiều khi ngây ngô, từng phù hợp
với thứ tiếng Anh bị biến dạng theo lối nói của người ít học thức.
Nền tảng của văn học da đen là chất liệu
được rút ra từ văn hóa và đời sống da đen. Đó chính là ‘cội rễ’ của nền
văn học da đen. Từ Cảnh tù tội của tôi và sự tự do của tôi (My Bondage and My Freedom-1855) của Fredẻick Douglass, Những linh hồn da đen
(The Souls of Black Folk-1903) của W.E.B.Dubois, đến thơ, tiểu thuyết,
kịch của các nhà văn Langston Hughes, Richard Wright, John Killens,
James Baldwin, Jame Johnson, Alain Locke, Sterling Brown, Alex Haley…,
tất cả những tác phẩm ưu tú đó đã bộc lộ một trình độ nghệ thuật không
thua kém gì các nhà văn da trắng. Chính nguyên lý ‘cộng sinh’ trong văn
hóa-văn học đã tạo ra dòng văn học da đen vừa giàu tính chiến đấu vừa
giàu nhạc điệu, có sức cuốn hút mãnh liệt người đọc. Đỉnh cao của sự kết
hợp này là tiểu thuyết Jazz của Toni Morrison. Nhạc Jazz là
loại nhạc chứa đầy tinh thần tự do và ngẫu hứng mà người da đen đã sáng
tạo ra, nó được dùng làm nền cho tác phẩm của nữ nhà văn. Trong Jazzchứa
chất những dồn nén, những kịch tính của các cảnh đời, sự trào dâng cuồn
cuộn và sự sâu lắng thi vị của các số phận. Bối cảnh của câu chuyện là
những năm 20 ở Mỹ, được mệnh danh là thời đại nhạc Jazz. Một người phụ
nữ đẹp đã bị gã nhân tình ghen tuông, trong buổi dạ hội chiều thứ bảy y
đã dùng dao đâm nàng. Khi cảnh sát hỏi việc gì đã xảy ra, người đàn bà
tội nghiệp đã trả lời “Tôi sẽ kể các ông nghe vào sáng ngày mai”. Nàng
muốn gã nhân tình có đủ thời gian để chạy trốn. Và đúng sang hôm sau
nàng chết…Từ câu chuyện này, Toni Morrison xây dựng một tác phẩm chứa
đầy các biến cố dồn dập của bạo lực và tình dục, qua đó đào sâu vấn đề
người Mỹ da đen và tệ nạn phân biệt chủng tộc, một vấn đề mà đến ngày
nay vẫn “hoàn toàn tồn tại”.
Đối với các nhà văn Mỹ da đen thì ‘vấn
đề da đen’ là điểm và đích đến của nghệ thuật. Họ cảm nhận tội ác phân
biệt chủng tộc “ngay trên màu da của mình”. Vì vậy, họ muốn dùng ngôn từ
như một phương tiện để góp phần giải phóng họ và đồng bào của họ khỏi
bất công. Trong thơ Langston Hughes, “Nỗi đau da đen” được diễn
tả với ngôn từ có sức nóng và vẻ đẹp tỏa sáng của ánh nắng mặt trời, để
thiêu chảy đi sự lạnh lùng khinh miệt đã rắn lại hàng trăm năm nay
trong lòng người Mỹ da trắng. Trong bài Lớn lên,ông đã xúc động kêu gọi đồng bào mình:
Hỡi bàn tay ta
Những bàn tay da đen
Hãy xuyên thủng bức tường
Tìm ra mong ước
Hãy giúp ta phá vỡ bóng đen này
Đập nát đêm dày
Và đập vỡ tan tành bóng tối.
Ý thức phản kháng lại sự bất công là chủ đề chính trong tiểu thuyết của các nhà văn da đen. R.Wright có Đứa con quê nhà ( Native Son ), Cậu bé da đen ( Black Boy ) tố cáo sự nô dịch của người da trắng và phản ánh khát vọng tự do của người da đen. John Killer với Máu thanh niên ( Young-blood ), Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng sét
( And Then we Heard the Thunder ) đã dũng cảm bảo vệ quyền lợi chính
trị của người da đen, chống lại chính sách áp bức của người da trắng.
James Baldwin với Hãy đi mà kể trên núi ( Go tell it on the mountain ), Một thế giới khác( Another Country ) đã bênh vực quyền sống và đề cao phẩm giá người Mỹ da đen…
Nhìn chung các nhà văn Mỹ da đen đều
chua xót nhận thấy vẫn chưa có mối quan hệ hợp tác thực sự giữa những
người da đen và da trắng. Họ đã nêu lên một thực tế là, việc giải quyết
“vấn đề da đen” tùy thuộc vào thái độ của người da trắng. Khi người da
đen nói với người da trắng: “ Màu da không quan trọng, hãy nhìn chúng
tôi như một con người, hãy đánh giá chúng tôi qua tính cách, qua việc
làm” thì người da trắng đáp lại: “Chỉ có màu da mới quan trọng”. Chính
những người da trắng vì không chịu thay đổi cách nhìn nhận về người da
đen và phủ nhận cả phẩm cách của họ đã dẫn đến một cách đối xử trái với
tự nhiên. Người da trắng khi thì bạo ngược, tàn nhẫn xem người da đen
như súc vật; khi thì cao ngạo, khinh miệt trong quan hệ. Cả hai lối thể
hiện đó đều chà đạp lên phẩm giá người da đen, đã đem đến những ngộ nhận
thảm hại, những bi kịch, những tai họa. Đó là vết nhơ đã và đang hằn
lên lương tâm nước Mỹ.
Đã đến lúc người da trắng cần từ bỏ
những định kiến, sự tự tôn giả tạo của họ, phá vỡ bức tường ngăn cách
màu da để xây dựng nên “ một thế giới với đầy đủ sự công bằng”. Một thế
giới của nền tự do dân chủ thực sự mà Langston Hughes đã kỳ vọng:
Không phải thế giới của riêng tôi
Mà thế giới của anh và của tôi
Do tất cả những bàn tay xây dựng
( Cái cày của tự do )
Bản chất của nền văn học Mỹ da đen là
vươn lên và thoát ly khỏi mọi ràng buộc của sự nô lệ. Đó là một nền văn
học độc lập, tỏa sáng trên bầu trời nghệ thuật của thời đại chúng ta. Và
vào năm 1993, giải thưởng Nobel của Toni Morrison là “ một kết quả
tuyệt diệu” của hơn một thế kỷ tranh đấu của các nhà văn Mỹ da đen.
Chính tinh thần bất khuất, cũng như những đóng góp to lớn về mọi mặt của
người Mỹ da đen cho nước Mỹ đã làm thức tỉnh trách nhiệm đạo đức ở
người Mỹ da trắng. Và 15 năm sau (2008), việc Obama- người Mỹ gốc Phi
đầu tiên trở thành tổng thống của nước Mỹ, được xem là bước ngoặt của
lịch sử Mỹ. Niềm vinh quang thứ nhất – giải Nobel văn học của Toni
Morrison – là thế giới trao cho nước Mỹ. Còn niềm vinh quang thứ hai –
tổng thống Obama – là nước Mỹ tự tạo cho mình trước thế giới. Hai niềm
vinh quang này tôn vinh hai giá trị khác nhau, nhưng con đường dẫn tới
vinh quang là giống nhau, là một.
No comments:
Post a Comment