Nhà nhân học và dân tộc học Philippe Descola
Trong các xã hội hiện đại ngày nay, phân biệt giữa ''Văn hóa''
và ''Tự nhiên'' đã trở nên một điều được chia sẻ rộng rãi. Văn hóa thuộc
về xã hội loài người, còn Tự nhiên là thế giới bên ngoài ta. Trong bối
cảnh cuộc khủng hoảng sinh thái đe dọa sự sống còn của nhiều cộng đồng
dân cư trên hành tinh và sự tồn tại bền vững của xã hội loài người,
không thể không đặt ra câu hỏi : Phải chăng cách ứng xử với môi trường
hiện nay có cội rễ trong một quan niệm như vậy ? Quan niệm đó từ đâu mà
có ? Đâu là những giới hạn của quan niệm này ?...
Tạp chí Khoa học của RFI tuần này xin chuyển đến quí vị một số
kiến giải về vấn đề trên qua cuộc đối thoại với nhà nhân (chủng) học
Pháp Philippe Descola.
Philippe Descola là người phụ trách Laboratoire d’anthropologie
sociale (Phòng nghiên cứu nhân học xã hội), cơ sở nghiên cứu hỗn hợp của
Collège de France/CNRS/EHESS, do nhà bác học Claude Lévi-Strauss - cha
đẻ thuyết cấu trúc luận nổi tiếng - phụ trách trước đây. Ông cũng từng
là học trò của Claude Lévi-Strauss.
Các khảo sát về thổ dân Nam Mỹ Jivaros Achuar, một sắc dân sống rải
rác trong vùng rừng nguyên thủy Amazone, đã đưa Philippe Descola hướng
về những suy tư về con người và những ứng xử nói chung của con người.
Mối quan tâm đặc biệt của ông là quan hệ giữa con người với môi trường,
mà ông gọi là các tồn tại « không phải con người » trong các xã hội khác nhau, từ xã hội của các thổ dân, đến các xã hội Phương Tây hoặc chịu ảnh hưởng của Phương Tây.
Tác phẩm « Bên kia tự nhiên và văn hóa » (Par-delà nature et culture)
(2005) của Philippe Descola đã đưa ra một cái nhìn vượt qua quan niệm
đối lập hai thế giới Tự nhiên và Văn hóa - tưởng như là điều mang tính
phổ quát - để giúp cho những người quan tâm có thể nhận thức sâu hơn,
đích thực hơn về mối quan hệ giữa con người và môi trường trong các xã
hội đương đại. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp những nghiên cứu của
Philippe Descola góp phần mang lại cho chúng ta những hiểu biết toàn thể
- xuyên thấu qua các nền văn hóa hết sức khác nhau - về các quan hệ con
người với thế giới tự nhiên, trước các thách thức hiện nay về môi
trường, do quá trình khai thác các nguồn lực tự nhiên một cách tràn lan
và thiếu kiểm soát.
Những đóng góp của Philippe Descola được cộng đồng khoa học ghi nhận.
Năm 2012, toàn bộ các công trình của ông được trao huy chương Médaille d’or
của CNRS, phần thưởng cao quý nhất của giới khoa học Pháp. Kể từ khi
giải được lập ra (1954) cho đến nay, trước ông chỉ có bốn nhà nhân học
khác được trao giải này : Claude Levi-Strauss (1967), André
Leroi-Gourhan (1973), Maurice Godelier (2001) và nhà xã hội học Pierre
Bourdieu (1993), mà một phần quan trọng trong tác phẩm của ông là các
nghiên cứu dân tộc học.
Từ thổ dân Achuar đến xã hội Tây Phương
Mở đầu tạp chí, Philippe Descola giới thiệu sơ qua với thính giả một số điểm chính của nghề dân tộc học và nhân học.
Philippe Descola : « Người ta thường có xu hướng
hình dung các nhà dân tộc học như là những người sưu tập các đồ vật lạ,
các hiện tượng kỳ bí gây tò mò, được thu thập tại những nơi xa xôi hẻo
lánh. Ngành dân tộc học ra đời trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân
cuối thế kỷ XIX, các nghiên cứu dân tộc học đầu tiên được tiến hành tại
các vùng đất sau đó trở thành thuộc địa, chủ yếu là của Anh và Pháp. Mặc
dù vậy, trên thực tế cái nhìn của các nhà dân tộc học, vốn được xây
dựng để hiểu về các xã hội xa xôi, có thể được dùng để hiểu về những gì
gần gũi hơn, nhưng là những thứ mà ta không hẳn đã có thể nhìn nhận một
cách trực tiếp về chúng, như ta vẫn tưởng (có thể thấy qua quan niệm về
‘‘Tự nhiên’’ và ‘‘Văn hóa’’ trong nền văn minh Tây Phương – ndr).
Người Achuar
Achuar là một nhóm cư dân gồm khoảng 18.500 người sống trong rừng
Amazone, tại vùng biên giới giữa Peru và Ecuador. Người Achuar là một
trong các nhóm thổ dân sống biệt lập, gần như rất ít bị thế giới bên
ngoài tác động. Achuar trong tiếng thổ dân có nghĩa là người cây cọ
‘‘aguaje’’.Achuar là một sắc dân nổi tiếng thiện chiến. Các nghiên cứu dân tộc học cho thấy quan hệ giữa các thành viên Achuar hoàn toàn bình đẳng. Khái niệm đẳng cấp là điều hết sức xa lạ, mặc dù những người săn bắt hay chiến đấu giỏi hơn được tôn trọng và được lắng nghe hơn… Tại Ecuador, sau khi được Hiến pháp công nhận quyền tự trị vào năm 1998, cùng với 13 sắc dân khác, người Achuar tiếp tục cuộc đấu tranh đầy gian khó để bảo vệ môi trường sinh thái, với sự trợ giúp của nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế... |
Dân tộc học mang lại sự ngạc nhiên. Trước hết đấy là phương pháp được xây dựng trên điều mà chúng ta gọi là ‘‘sự quan sát tham nhập’’.
Có nghĩa là sự hội nhập trong một thời gian dài của một người quan sát
trong một cộng đồng, mà người đó học hỏi tiếng nói, nếu như không phải
là tiếng của người đó, và chia sẻ cuộc sống của cộng đồng trong một năm,
hai năm hoặc nhiều năm. Kinh nghiệm này cho phép người đó hiểu được
cộng đồng này sống như thế nào, đâu là các giá trị của họ, các chuẩn mực
của họ.
Ngành dân tộc học trong hiện tại hướng đến những nghiên cứu về nhiều
cộng đồng khác nhau trên thế giới, kể cả những cộng đồng thuộc chính
các xã hội hiện đại. Những đồng nghiệp Mỹ của tôi đã làm những nghiên
cứu về đời sống hải quân trên một chiến hạm của quân đội Mỹ, các đồng
nghiệp EPHE (Paris) của tôi thì làm những nghiên cứu về cảnh sát thuộc
biệt đội chống tội phạm (BAC - Brigade Anti-Criminalité) tại vùng 93, và
có những nghiên cứu về giới điện ảnh tại Bollywood…
Toàn bộ những cái nhìn của nhà dân tộc học hướng về các cách thức
khác nhau tạo thành một xã hội cụ thể, cung cấp các dữ liệu cho phép nhà
nhân (chủng) học mở ra những suy ngẫm sâu rộng hơn về các xã hội con
người nói chung ».
Nhà nhân học Descola giải thích vì sao ông lại chọn nghiên cứu xã
hội người Jivaros Achuar, một nghiên cứu mà ông đã tiến hành trong
những năm 1970.
Philippe Descola : « Tôi đã chọn vùng Amazone, bởi
một lý do chính xác là : Từ khi chúng ta có các thông tin về các cư dân ở
khu vực đất thấp ở Nam Mỹ, tức vào khoảng thời Phục Hưng, khi những
người Châu Âu đầu tiên xâm nhập vào vùng ven biển Brazil hiện nay, ở
Châu Âu người ta ngạc nhiên thích thú với chuyện này, bởi hai điều.
Hoặc người ta hình dung là các cư dân ở đây giống như những người sống trong vườn địa đàng Eden, ‘‘những triết gia trần truồng’’, như Mongtaigne mô tả, ‘‘những người hoang dã tốt bụng’’ (‘‘les bons sauvages’’),
hoặc ngược lại, đó là những kẻ ăn thịt người. Nhưng nhìn chung, dù loại
này hay loại kia, những thổ dân Nam Mỹ đều được hình dung như là sự nối
dài của tự nhiên. Các thổ dân được coi là không có khả năng tách khỏi
tự nhiên, họ hoặc là sản phẩm tốt của tự nhiên, hoặc là sản phẩm tiêu
cực.
Những nhà du hành, những người thu thập tư liệu đầu tiên, sau đó là
các nhà dân tộc học gặp rất nhiều khó khăn trong việc hiểu được xã hội
của các thổ dân đó. Xã hội của các thổ dân Nam Mỹ sống rải rác rất khác
so với các xã hội đã được biết đến trước đó nhiều hơn ở Châu Phi hay ở
Châu Đại dương. Ở các xã hội thổ dân Nam Mỹ không có dòng họ, không có
hệ thống thủ lĩnh, không phân chia thành các nhóm… tóm lại không có các
định chế xã hội mang tính hội nhập cao.
Để hiểu được các xã hội xa lạ này vận hành như thế nào, nhà nhân học nhấn mạnh đến một giả thuyết sau đây.
Philippe Descola : « Tôi có một giả thuyết là :
Chính sự hàm chứa của tự nhiên trong đời sống xã hội này, có nghĩa là
mối quan hệ không hề đứt đoạn giữa con người với các tồn tại không phải
con người, có thể là một đầu mối giúp chúng ta hiểu được các xã hội lạ
lùng này.
Ở Phương Tây bắt đầu từ thế kỷ XVI, có sự phân biệt rõ rệt giữa con
người với các tồn tại không con người, vì con người được coi là có một
đời sống chủ quan, có ngôn ngữ, có khả năng xây dựng biểu tượng…, một
đời sống nội tâm, ta có thể nói như vậy. Trong khi đó, về mặt sinh học,
thì con người không thực sự khác biệt với các tồn tại khác trong thế
giới này. Bởi vì con người cũng như các tồn tại khác đều tuân theo các
quy luật hóa học, vật lý… và tất nhiên là, kể từ Darwin ta biết đến các
quy luật sinh lý di truyền, của sự tiến hóa… Chính đời sống tinh thần
khiến con người Phương Tây khẳng định mình như là một tồn tại khác biệt
với toàn bộ phần thế giới còn lại.
Người Achuar : Thế giới tự nhiên như "sự nối dài của tâm hồn con người"
Tại Amazon, khi tôi đến đây nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi : Làm
thế nào mà Tự nhiên gắn kết với xã hội con người ở đây ? Tôi đã nhận
thấy một điều ngược lại.
Cụ thể là, những người Achuar, và những dân cư tương tự khác mà tôi
được biết đến sau đó qua sách vở, nhìn nhận ở rất nhiều tồn tại không
phải là con người, những suy nghĩ, tình cảm giống như con người.
Như vậy, theo cách suy nghĩ này, giữa con người với thế giới gọi là
tự nhiên không hề có sự gián đoạn, ngược lại, mỗi cộng đồng người lại là
một loài riêng, có một thế giới riêng, với các đặc tính riêng. Mỗi bộ
lạc có một ngôn ngữ, các công cụ, các đồ trang sức, cách ăn mặc, để tóc
riêng… Những điều này được coi là các thế mạnh mang tính sinh học của
tập thể đó ».
Và một điều không thể bỏ qua là thứ âm nhạc riêng của cộng đồng.
Theo giải thích của Philippe Descola, nhạc cụ được sử dụng mà
chúng ta nghe là cây đàn hai dây (tiếng Achuar gọi là kerum), lấy cảm
hứng từ đàn violon Châu Âu trong các tiếp xúc với người Tây Ban Nha.
Thực dân Tây Ban Nha trước đây đã bị thổ dân Achuar đánh tơi bời và
không trở lại vùng này cho đến giữa thế kỷ XX, nhưng người Achuar lại
tiếp nhận từ người Tây Ban Nha ảnh hưởng âm nhạc nói trên.
Điều thú vị trong âm nhạc kể trên là giai điệu của nó được gọi là
« a-nưn-s » - tiếng nói của tâm hồn, tức là một bài hát, một lời thỉnh
cầu – thường được hát thầm trong đầu (hay biểu hiện ra ngoài bằng sáo
hoặc đàn) nhắm tác động đến trạng thái chủ quan hay tinh thần của một
đối tác, không chỉ là một người mà cả các tồn tại không phải con người…
Bạn có thể hướng (giọng hát này) đến một con khỉ hay một nương sắn, hay
đến vợ mình, nếu bạn đang đi chiến đấu… nhằm định hướng đối tác đến một
hành động. Ví dụ như khi đi đánh bẫy khỉ bằng thuốc độc, khi con khỉ bị
nhiễm thuốc độc, nhưng chưa rơi xuống đất, người Achuar cho rằng khi hát
lên « a-nưn-s » - tiếng nói của tâm hồn - như vậy sẽ khiến khỉ rơi
xuống đất.
Từ kiểm soát Thiên nhiên đến đòi hỏi thừa nhận "quyền của hệ sinh thái"
Cuộc sống của người thổ dân Achuar, cũng như nhiều thổ dân
Amazone gắn chặt với tự nhiên. Bác bỏ một quan niệm khá phổ biến ở
nhiều người, Philippe Descola cho rằng các thổ dân Amazon mà ông biết có
một thu hoạch đủ ăn, thậm chí dư thừa về các chất cơ bản như chất đạm,
đặc biệt với việc sử dụng các loài côn trùng làm nguồn thực phẩm chính.
Khác với nền văn minh Phương Tây, các thổ dân có những quan hệ
mang tính đối thoại với môi trường, hay « những tồn tại không phải là
người », theo cách gọi của Philippe Descola. Bạn hoàn toàn có thể tiêu
thụ một loại cây, giết một con thú, nhưng bạn không có một quan hệ mang
tính « kiểm soát tuyệt đối » đối với các thực thể này. Bởi vì cây này,
hay con này tùy theo thực tế cụ thể có thể chấp nhận cho bạn ăn, bạn
giết, hay sẽ trả thù bạn. Các thực thể này có khả năng thương thuyết trở
lại với bạn.
Tóm lại, mối quan hệ đặc biệt như vậy của các thổ dân với môi
trường, không coi môi trường là các tài nguyên mà con người có toàn
quyền khai thác và kiểm soát, xuất phát từ một thái độ rất gần gũi về
mặt tinh thần giữa con người với « các thực thể không phải là con người
». Tìm hiểu về xã hội các thổ dân Amazon, nhận biết những khác biệt vô
cùng lớn so với xã hội Phương Tây trong mối quan hệ với môi trường, nhà
nhân học đặt quan niệm cố hữu về sự đối lập Tự nhiên và Văn hóa trong
nền văn minh Phương Tây, và những xã hội chịu ảnh hưởng, trước một loạt
thách thức.
Philippe Descola : « Hiện nay, chúng ta thấy, sự
phân biệt giữa Tự nhiên và Văn hóa không còn hiệu quả lắm đối với nền
văn minh (phương Tây hiện đại) của chúng ta. Bởi vì mọi biến đổi khoa
học, ví dụ như các kỹ thuật nhân bản hay quá trình khí hậu bị hâm nóng…
cho thấy khó mà phân biệt rành rọt giữa ''Tự nhiên'' và ''Văn hóa'', giữa quá trình ‘‘Tự nhiên’’
và quá trình mang tính nhân tạo. Trong một thời gian dài, chúng ta đã
thấy có những thứ thật sự mang tính tự nhiên và có những điều mà chúng
ta kiểm soát được. Nhưng trong hiện tại, sự kiểm soát các quá trình nhân
tạo như vậy đã thoát khỏi tầm tay của chúng ta.
Sự phân biệt Tự nhiên và Văn hóa trong vài thế kỷ qua, ở Châu Âu và
những nơi chịu ảnh hưởng của Châu Âu, là một điều đã trở nên ổn định.
Tuy nhiên, trong hiện tại, sự phân biệt này đã trở thành câu chuyện của
quá khứ. Nhưng dù sao, một quan niệm đã thuộc về quá khứ như vậy vẫn
tiếp tục để lại những hệ quả đối với chúng ta.
Chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa được ‘‘các thực thể không con người’’
hội nhập vào trong xã hội của chúng ta, để giúp cho chúng ta thoát khỏi
cuộc chạy đua cùng nhau hướng đến vực thẳm. Cụ thể là cái tương lai
kinh hoàng chung đang chờ đón chúng ta : Đây là kết quả của cuộc (chạy
đua) khai thác tự nhiên, một thế giới tự nhiên chỉ được nhìn nhận như là
một nguồn tài nguyên cho con người khai thác.
Từ đó, chúng ta có thể thấy lợi ích của việc thừa nhận tự nhiên. Điều
này không nhất thiết đồng nghĩa với việc dành quyền cho một số loài
động vật, như các đòi hỏi của nhiều nhà tranh đấu hiện nay, mà rộng hơn
nhiều đó là vấn đề quyền của các hệ sinh thái.
Ví dụ như khi ta bảo vệ một môi trường, thì không chỉ là bảo vệ
nguyên trạng, mà còn là duy trì một sự cân bằng tối ưu, về mặt trao đổi
năng lượng giữa các thành tố, mà trong đó con người là một thành tố,
nhưng là thành tố mang lại nhiều tác động gây trở ngại lớn nhất cho quá
trình trao đổi năng lượng.
Trong một chừng mực nhất định, con người cần được coi như là phần
phụ, thêm vào các chủ thể về quyền, đó là các hệ sinh thái, chứ không
phải là những người tạo ra quyền, có vai trò quyết định bảo vệ hay không
bảo vệ các hệ sinh thái.
Sự thay đổi mang tính cách mạng này cần phải được tiến hành trong thế kỷ mà chúng ta đang sống, nếu không thì quá muộn ».
Kẻ "thích nghi" tốt nhất và hiểm họa của việc khai thác cùng kiệt môi trường
Nhà sinh học và triết học Jean-Jacques Kupiec : «
Con người là một sinh vật, nhưng là một sinh vật đặc biệt. Sinh vật
người phát triển một môi trường riêng của mình. Trong một chừng mực nhất
định, con người thoát khỏi các cạnh tranh với những giống loài khác với
việc tạo ra môi trường riêng của mình.
Tôi trở lại với Darwin. Darwin giải thích rằng : ‘‘Chọn lọc tự nhiên’’
là sự sống sót của giống loài nào có khả năng thích nghi cao nhất.
Người ta vẫn tin rằng đó là sự sống sót của loài mạnh nhất hay của loài
thông minh nhất. Không, hoàn toàn không phải như vậy. Loài có khả năng
thích nghi cao nhất, theo Darwin, là nhờ ở nguyên tắc mà ông gọi là ‘‘việc tạo sự khác biệt"
(divergence). Khi chúng ta có hai tồn tại rất giống nhau, có cùng các
đặc tính, cùng tìm thức ăn ở một nơi, vì chúng có cùng một kích thước và
chúng rơi vào cạnh tranh, thì điều gì sẽ xẩy ra ?
Thì lúc đó, những giống nào lớn hơn hay thấp hơn một chút, chúng sẽ
tìm được các cây thấp hơn hay cao hơn, thì đó sẽ là loài sống sót. Đó là
những loài tạo được sự khác biệt. Darwin gọi giống loài giành chiến
thắng là loài có nhiều sự khác biệt nhất so với mức trung bình, loài
thích nghi nhất là loài tạo được khác biệt nhất.
Chính nguyên tắc này cho phép chúng ta hiểu được lý do thành công của
loài người. Bởi vì con người là loài động vật tạo ra cho mình môi
trường riêng, với văn hóa. Con người tạo ra môi trường riêng mà không có
giống loài nào khác có thể tới để cạnh tranh với nó.
Hiển nhiên là, sự phát triển của giống người (như thế) có thể ngược lại đặt ra những vấn đề (mới) mà loài người phải làm chủ ».
Trong phần đối thoại với nhà sinh học và triết học Jean-Jacques
Kupiec, đồng ý với nhận định chính con người tạo ra những môi trường cho
riêng mình và không giống loài nào có thể đến cạnh tranh với nó, và đây
là một nhân tố khiến con người chiến thắng trong cuộc cạnh tranh sinh
tồn của chọn lọc tự nhiên, tuy nhiên, Philippe Descola lưu ý đến những
hệ lụy của các tiến bộ kỹ thuật, thoạt tiên mang lại sức mạnh cho con
người, nhưng sau đó, đã biến thành các tác nhân gây hủy hoại môi trường
nói chung, đặt toàn nhân loại trước một thách thức sống còn.
Philippe Descola : « Hoàn toàn đúng như vậy. Đây là
điều mà thế hệ các nhà dân tộc học chúng tôi làm việc tại vùng Amazone
đã thấy. Rừng Amazone được coi là một không gian hoang dã lớn trên Trái
đất. Trên thực tế, khu vực này đã được tạo tác qua năm tháng bởi các cư
dân sống ở đây. Khoảng 10.000 năm trước, con người sống tại đây đã bắt
đầu thuần hóa các loài thực vật, trong quá trình đốt nương làm rẫy. Theo
dòng thời gian, hành động này đã có một tác động cơ bản đến sự phân bố
của các loài thực vật. Rừng Amazone hiện nay là sản phẩm của các hoạt
động con người. Hành động con người đã có tác động sâu sắc đến cấu tạo
của rừng. Cho dù đây không phải là những nương lúa rộng lớn như tại vùng
Đông Nam Á, nhưng rừng Amazone cũng không hoàn toàn là nơi hoang dã.
Các thổ dân Da đỏ hoàn toàn có ý thức về sự biến chuyển của rừng mà họ
đã tham gia tạo tác. Trên thực tế, rừng được coi là một khu vườn lớn, và
vườn được coi là một khu rừng thu nhỏ. Có một sự liên tục giữa không
gian được thuần hóa và không gian hoang dã. Điều đó cho thấy môi trường
là do con người tạo ra.
Toàn bộ vấn đề đặt ra trong phần cuối của các nhận định của người
đồng nghiệp của tôi Jean-Jacques Kupiec, là mức độ chuyển hóa mà con
người có thể mang lại đối với môi trường, các hệ quả lâu dài. Các tác
động của con người đến vùng Amazone có thể được thấy qua các nghiên cứu
thực vật học, với việc kiểm kê các giống loài thực vật, ví dụ như có một
sự tập trung cao của một số giống loài. Điều này chỉ có thể được giải
thích bằng sự di thực do con người thực hiện. Các hành động này không có
hệ quả nghiêm trọng về dài hạn.
Ngược lại, việc làm biến đổi môi trường do quá trình đô thị hóa, quá
trình phủ kín mặt đất bằng các vật liệu không thấm nước, hệ quả gây sói
mòn của lũ trên các vùng đất nghiêng, và chung hơn là khí hậu trái đất
bị hâm nóng… Tất cả những điều này, về mặt lâu dài, có hệ quả lớn hơn
nhiều. Tôi tin rằng, các thảo luận cần phải hướng vào việc tìm ra các
kỹ thuật giúp cho việc kìm hãm các thay đổi này, chứ không phải làm cho
các thay đổi như vậy trở nên nghiêm trọng hơn ».
"Toàn cầu hóa" : Phản ứng kháng cự và các văn hóa lưỡng hợp khu vực
Trong phần đối thoại cuối cùng của tạp chí, Philippe Descola ghi
nhận nhận định của nhà địa chất học Michel Lussault về sự xuất hiện
những đa dạng văn hóa, với các tiểu văn hóa sinh ra trong quá trình toàn
cầu hóa hiện nay, qua việc hình thành các cộng đồng nhập cư – sống tại
các trung tâm lớn của thế giới - vẫn còn giữ được các gốc gác của mình.
Tuy nhiên, nhà nhân học muốn đưa ra một cái nhìn bao trùm hơn nhiều về
thế giới đương đại, mà theo ông, không chỉ là sự đối lập giữa một bên là
chủ nghĩa tư bản toàn cầu, dưới hình thức các đại công ty.
Philippe Descola : « Tôi đồng ý với quan điểm cho
rằng quá trình toàn cầu hóa tạo ra nhiều sự khác biệt, đồng thời với
việc hủy diệt những khác biệt. Đây là một quá trình tương phản.
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra hiện nay với cái mà chúng ta gọi là ‘‘thực dân hóa nội địa’’,
tại các quốc gia lớn như Brazil, Trung Quốc, Indonesia (cũng như các
quốc gia trung bình và nhỏ khác – ndr). Quá trình này dẫn đến sự biến
mất của các xã hội, các thành viên của các xã hội như vậy có thể không
biến mất về mặt thực thể sinh học, nhưng các nền văn hóa và đặc biệt là
các tiếng nói thì mất đi. Có một thực tế không phủ nhận được là sự biến
mất của các ngôn ngữ (của các cộng đồng thiểu số). Mỗi năm, có thể có
đến hàng chục ngôn ngữ biến mất. Mỗi ngôn ngữ là một gia tài, như chúng
ta biết.
Cùng lúc đó, là các phản ứng, ở các địa phương ở vùng ngoại vi của
chủ nghĩa tư bản, và đồng thời ở trung tâm của chủ nghĩa tư bản, các
phản ứng chống lại các trào lưu mang tính hủy diệt này. Chúng ta thường
có xu hướng chỉ nhìn thấy sự đối lập giữa một bên là chủ nghĩa tư bản
toàn cầu, dưới hình thức các đại công ty, áp đặt một mô hình, một lối
tiêu thụ mang tính toàn cầu, và bên kia là cuộc sống rộn ràng của các
văn hóa địa phương hết sức nhỏ bé (fourmiellement), đang lần lượt bị hút
vào cái cực độc nhất này.
Thực tế phức tạp hơn nhiều, do quá trình nhất thể hóa diễn ra tại các
địa phương. Tôi lấy ví dụ về người Achuar tại Equador. Vào lúc tôi bắt
đầu nghiên cứu xã hội này, người Achuar rất ít liên hệ với Nhà nước, sự
hiện diện của Nhà nước lúc đó chỉ qua một số đơn vị quân đội đóng gần
khu vực họ sống. Nhưng dần dần, các định chế Nhà nước hình thành, như
các ‘‘kết hợp lưỡng tính mang tính chất thực dân’’ (hybride
coloniale), thông qua các mô thức trong âm nhạc hay các hình thức tổ
chức xã hội, các hình thức lao động cộng đồng… Dần dần, các mô hình địa
phương của quá trình toàn cầu hóa được hình thành.
Những mô hình ‘‘kết hợp lưỡng tính mang tính chất thực dân’’
hoàn toàn không phải là mô hình phương Tây, cũng không phải là mô hình
bản địa. Hiện tượng kết hợp lưỡng tính đó trong đời sống địa phương hình
thành ở khắp mọi nơi trên hành tinh này. Những người Achouar trở thành
người ‘‘créol’’ (tức người nói thứ tiếng nói pha trộn giữa
tiếng nói thống trị với tiếng nói bản địa - ndr), chứ không phải là
người Phương Tây. Điều này cũng giống với việc một người Pháp chẳng hạn
sống ở Ecuador hay Indonesia, có được các thói quen văn hóa đặc biệt,
gắn liền với nền văn hóa của mỗi nơi này. Những thói quen đó mang lại
những sắc thái riêng biệt trong một nền văn hóa địa phương. Chúng ta
thấy sự phổ biến các nền văn hóa khu vực như vậy bao trùm lên trên các
nền văn hóa mang tính địa phương nhỏ hẹp hơn.
Chính ở đó diễn ra quá trình đa dạng hóa ».
Nhân loại trước "bước nhảy" quyết định
Trước khi khép lại tạp chí về quan hệ con người và môi trường,
đối thoại với Philippe Descola, chúng tôi xin giới thiệu thêm với quý vị
tiếng nói của nhà triết học Patrick Viveret về nhân loại trước các
thách thức chưa từng có về môi trường hiện nay (qua tạp chí của RFI "L'écologie : un luxe en temps de crise?"). Patrick Viveret là người có một cảm quan về vận mệnh nhân loại khá gần gũi với Philippe Descola.
Patrick Viveret : « Đây là thời điểm mà nhân loại
(hiện đại - ndr) ý thức về số phận chung của mình và bắt đầu trở thành
chủ thể lịch sử của số phận chính mình. Nhân loại đã khởi sự với những
gì tồi tệ nhất : các trại tập trung thảm sát hàng loạt dưới chế độ phát
xít, bom nguyên tử Hiroshima… Đấy là thời điểm mà nhân loại tự hủy diệt,
về mặt tinh thần cũng như về mặt thực thể. Nhưng ít năm sau, Stéphane
Hessel đã nhắc đến rất đúng, chúng ta có Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền. Từ đó, mà nhân loại có thể nói lên một tiếng nói thống nhất bằng
ngôi ‘‘tôi’’. Từ đó đặt ra vấn đề : ‘‘Nhân loại có phải là một tài sản chung hay không ?’’
Ở đây, tôi nói đến quá trình ‘‘humanisation’’ - tức trở quá
trình trở thành người đang diễn ra -, để so sánh với sự xuất hiện của
con người trước kia, sau khi đã diễn ra một quá trình hình thành nên con
người về mặt sinh học – ‘‘hominisation’’. Nếu nhân loại có thể thực hiện được một ‘‘bước nhảy về chất’’
(un saut qualitatif) trong quá trình này, thì như vậy, nhân loại có
trước mình một cơ hội phi thường. Mà điều này gắn với sự trưởng thành
rất lớn về mặt tình cảm. Trên thực tế, về mặt tình cảm, nhân loại vẫn
còn ở tuổi thơ ấu.
Ngược lại, nếu nhân loại không thành công trong ‘‘bước nhảy về chất’’
này, thì nhân loại có thể sẽ phải trải qua, như trong nhiều giai đoạn
lịch sử trước đó, những giai đoạn đầy kịch tích của sự suy thoái, chiến
tranh và hỗn loạn ».
Nguồn " - web của rfi.fr., chương trình « Autour de la question ».
No comments:
Post a Comment