YVES CITTON (1)
--- CHÂN PHƯƠNG dịch và chú thích
Cuối hè 2009 tạp chí LA QUINZAINE LITTÉRAIRE (2)ra số chủ đề “ La Critique Littéraire
en question”(Chất vấn phê bình văn học) gồm nhiều bài nhận định, biên khảo, phỏng vấn khoảng hơn hai mươi văn
gia, học giả, giáo sư ở Pháp như Marc Fumaroli, Jacques Dubois, Jean
Bellemin-Noel, Gérard Dessons, Dominique Mainguenau…
Bài nhận định
“Etudes Littéraires et Société de l’Interprétation” của Yves Citton nằm trong phần tạm kết và định hướng tương lai văn
học của số báo đặc biệt này.
Các môn nghiên cứu văn học đang đứng trước một ngã rẽ. Với
thế kỷ đang đến, một đàng chúng có nguy cơ lặp lại số phận của ngành thần
học. Ngày nay còn ai tiếc nuối cái thời khi thần học đứng chung với các
bộ môn đại học khác? Ai mà không nhìn các đồng nghiệp thần học với nụ cười
hơi thương hại - những phế tích lỗi thời từ một quá khứ nặng tín ngưỡng giữa
cõi nhân gian thế tục vô thần? (3)
Nhiều
chẩn đoán về “xã hội của hình ảnh” , về “suy giảm độc giả”, về “văn hóa mì ăn
liền (instantané)” đã hứa trước với chúng ta một thế giới ở đó văn học sẽ
không còn chỗ đứng. Tương tự như súng thần công thẳng nòng chỉ còn là di vật
lịch sử lạ mắt đối với phần lớn thiên hạ hôm nay, ta cũng có thể tưởng tượng
đa số dân chúng Pháp vào năm 2100 hay 2050 ( và có thể sớm hơn là 2010) sẽ
không còn hiểu được sự bổ ích của việc viết sách, đăng báo, tổ chức các hội
thảo, hoặc dành ra một lục cá nguyệt để giảng dạy vài bài thơ Rimbaud hay một
tiểu thuyết của Diderot.Các môn nghiên cứu văn học trong một mức độ nào đó
dựa trên sự linh thiêng hóa văn bản, dưới mắt của các thế hệ tương lai điều
này rất có thể bị xem là trò dị đoan huyễn hoặc.
Nghiên
cứu văn học có thể làm gì để khỏi phải nối bước thần học về nhà kho của những
kiến văn cũ càng? Liên kết mật thiết với nhau có ba điều khả dĩ mở ra hướng
đi khác trong thế kỷ đang đến.
Trước
nhất ta nên nhận diện chính xác những động lực nằm trong lòng các hình thái sản xuất của cải mới tiêu
biểu cho thời đại chúng ta. Phần lớn các phạm trù chính trị, kinh tế, nhân
học của chúng ta bắt đầu với kỷ nguyên tư bản công nghiệp từng ngự trị hai
thế kỷ 19 và 20. Các quan niệm thống soái và các cách đo lường “lao
động”,“phát triển”, “thịnh vượng” của chúng ta trật nhịp hoàn toàn với những
gì đang (và nhất là sẽ) tạo nên sức sản xuất thực sự vào thời đại của chủ nghĩa tư bản tri thức(capitalisme
cognitive) đang bước đầu thành hình.(4) Kể từ đây chỉ đạo các lĩnh vực sản
xuất vật chất sẽ là lô gíc của sự
truyền thông/truyền đạt cái phi-vật chất ( logique de la communication de
l’immatériel); trong các xã hội dư thừa ( dư thừa tương đối do phân phối bất
công) của chúng ta những bài toán về khan hiếm và những xung đột về quyền lực
từ đây phần lớn tùy vào mức thu hút sự
chú ý (captation de l’attention) hơn là sự chiếm đoạt “đồ vật”.
Điều
quan trọng thứ hai là đừng nên mù quáng tin theo các cách nói về “xã hội của
kiến thức” , “xã hội của thông tin”, “xã hội của truyền đạt” , thường được
dùng để gọi tên các lôgíc xã hội mới. Trái ngược với lối suy nghĩ sáo mòn do
mấy từ ngữ ấy chuyển vận, điều xứng đáng được đặt ở trung tâm của năng suất
và những xung đột quyền lực đang nổi lên hiện giờ không phải “kiến thức”,
“thông tin”, “truyền đạt” mà là diễn
giải (interpretation). Theo đà tự động hóa ngày càng nhiều các hoạt động
trí tuệ dựa vào quyền năng của máy tính (ghi nhớ, tính toán, hệ thống hóa,
sao chép, nhận diện-nhận dạng), kháng cự lại sự thay thế bằng máy móc một
cách mạnh mẽ là các loại công việc liên quan đến sự diễn giải, như một hoạt
động phức hợp cao cấp, đa chiều kích,
giàu sáng kiến, chủ yếu mang tính
dự phóng (une activité éminemment complexe, multidimensionnelle, inventive et essentiellement projective). Một bộ máy có thể đọc các dữ kiện (“thông tin”),
có thể phân loại chúng (“kiến
thức”), có thể truyền đạt chúng
(“truyền thông”) nhưng không thể diễn
giải chúng – có nghĩa là suy tư
trên phương diện tính thích ứng và phong cách về mặt nghĩa lý, nội hàm, giá trị và ứng dụng của một tập hợp ký hiệu trong khuôn khổ một tình huống
cùng thực tiễn đã định sẵn (réfléchir
en termes de pertinence et de style sur la signification, les connotations, la valeur et l’applicabilité d’un ensemble de
signes dans le cadre d’une pratique et d’une situation données).
Sau
cùng nên công nhận rằng các môn nghiên cứu văn học và nói rộng ra -- các
“khoa nhân văn” -- tạo thành lĩnh vực kiến thức được trang bị tốt nhất để
hiểu và thực hành những gì mà hoạt động diễn giải có thể làm một cách phức
tạp nhất và phong phú nhất. Khi người ta nhận thức được việc quản trị/điều
tiết sự chú ý và những cảm xúc (économie de l’attention et des affects), các
vấn đề về phong cách, nghĩa lý, giá trị cùng tính thích ứng đảm trách đến mức
nào cả hai vai trò động cơ và hoa tiêu trong mọi phát triển xã hội của chúng
ta, làm sao không thấy rằng những gì giới văn học thực hiện trên các
tạp chí, trong những hội thảo với giảng khóa văn học nằm ngay tâm điểm sinh tử nhất của các vấn nạn
hiện nay của chúng ta? Thay vì chịu chung bản án với ngành thần học bị vứt
vào nhà kho lịch sử, các môn nghiên cứu văn học trái lại phải được chiếm vị
trí xứng đáng ngay trung tâm các cơ
chế giáo dục và nghiên cứu về thế giới tương lai, khi mà thế giới ấy hoạt
động đồng nhịp với một xã hội của sự
diễn giải.
Tuy
nhiên với yêu sách về vị trí trung tâm như thế đòi hỏi giới văn học về phần
mình phải bỏ công sức suy xét và tổ chức lại công tác giảng dạy và nghiên cứu
của họ. Không xếp cùng hàng các “bộ môn” (discipline) khác (đang còn tìm kiếm
tính khoa học hay các bằng cớ về tính nghiêm túc thực chứng), các môn nghiên
cứu văn học phải được quan niệm như một
bình đồ phi chuyên ngành (une plate-forme indisciplinaire) có nhiệm
vụ liên kết, hợp nhất, phê phán, làm bật tung và tách đôi (faire rebondir et
bifurquer) các tri kiến bắt nguồn từ những bộ môn “khoa học”. Nghiên cứu văn
học phải đúc kết các hậu quả từ sự kiện này: không thể đo lường những ưu điểm
của việc diễn giải văn học bằng các ý niệm về chân lý (tương ứng với một dữ kiện đã có) mà phải bằng các ý niệm
về gợi tưởng/suggestivité (năng lực
làm hiện ra những thế giới khả dĩ khác).
Sau
ba thập niên dưới sự thắng thế của duy sử luận /historicisme ( nhiều lúc ngột
ngạt, không còn động viên và thiếu sức gợi hứng cho học thuật), đã đến lúc ta
phải nhớ lại rằng công việc nghiên cứu các văn bản (văn học hoặc phi-văn học)
chỉ dùng đến kiến thức về quá khứ để đóng góp tốt hơn vào cuộc tranh luận về
hiện tại và kiến tạo tương lai. Đúng là các môn nghiên cứu văn học đang đứng
trước ngã rẽ: bên phải là con đường nền nếp của loại kiến thức thực
nghiệm/thực chứng (savoir positiviste) đang dẫn về lối bí của thần học nếu
không chịu chất vấn vị thế của mình; bên trái là con đường phi chuyên ngành
của các cách đọc hoạt khởi /lectures actualisantes(5) lấy lịch sử và văn bản
tính làm dưỡng chất để đóng góp tốt hơn vào những cuộc tranh luận đang định
đoạt hướng đi cho các xã hội diễn giải của chúng ta./.
CHÂN
PHƯƠNG dịch và chú thích, Xuân Canh Dần, Cambridge, Massachusetts.
CHÚ THÍCH
1.Sinh
năm 1962 ở Genève, nay là giáo sư tại đại học Stendhal-Grenoble, Yves
Citton là một rising star về tư
tưởng chính trị và lý thuyết văn học ở Pháp. Chuyên trị về tư tuởng thế kỷ
Khai Sáng Pháp vừa là học giả hàng đầu về Spinoza, ông vận dụng kiến thức về
triết học và lịch sử của mình vào cách đọc các loại tác phẩm. Bài nhận định
ngắn “Nghiên cứu văn học và Xã hội diễn giải” tóm lược nội dung của quyển
khảo luận tác giả hoàn thành mấy năm trước đây LIRE,INTERPRÉTER,ACTUALISER, Paris, Ed. Amsterdam,2007.
2.Do
nhà phê bình và nghiên cứu văn học Pháp Maurice Nadeau sáng lập, tạp chí văn
học và tư tưởng La Quinzaine Littéraire
(Bán Nguyệt San Văn Học) đã có mặt từ hơn bốn mươi năm qua bên cạnh các
tạp chí văn hóa hàng đầu ở Pháp như
Critique, Esprit, Magazine Littéraire, Le Débat, Les Temps Modernes, Nouvelle
Revue Francaise…Không chỉ là diễn đàn của giới nghiên cứu, phê bình văn
học ,tạp chí này còn được xem như một loại bách khoa về triết học, mỹ thuật
và các ngành khoa học nhân văn.
3.Đoạn
này là lời mở đầu của ban biên tập La
Quinzaine Littéraire cho bài nhận định của Yves Citton. Mấy ý kiến không
được lạc quan này phản ảnh sự khủng hoảng hiện nay của các phân khoa văn học
càng ngày càng bị mất sinh viên, nhất là từ cuộc suy thoái kinh tế lớn đang
diễn ra ở các nước Âu-Mỹ. Tình hình này càng đen tối hơn ở Hoa Kỳ , nơi mà
học phí đại học quá đắt đỏ (trung bình vài ba chục nghìn đô la mỗi năm) càng
khiến cho các sinh viên cùng phụ huynh tránh né các ngành văn học như English Studies, hoặc Comparative Literature…không có nhiều
giá trị kinh tế bằng các môn học thực dụng khác. Tạp chí The American Scholar (mùa thu 2009) vừa đăng một bài nhận định
của William M. Chace, “The Decline of
the English Department” phân tích các nguyên nhân khiến cho giáo dục đại
học chuyên về nghiên cứu văn học ở Mỹ đang xuống cấp (decline) cả về phẩm
chất lẫn số lượng sinh viên. Sự mất giá của môn lý luận văn học là một trong
các hậu quả của tình trạng mất phương hướng trong học thuật đi kèm với thiếu
hụt ngân quĩ ngày càng nghiêm trọng đang kéo các phân khoa Anh văn và ngoại
văn đi xuống.
Cũng
như Citton biện hộ cho việc diễn giải văn bản, giáo sư Chace đề cao việc đọc
sách, đặc biệt là các tác phẩm văn học lớn. Đây là niềm vui và ý nghĩa của
môn văn học, là nền móng cho các phân khoa đại học chuyên về nghiên cứu văn
học. Nếu được kết hợp chặt chẽ với môn viết văn và tu từ học, theo Chace, các
cách đọc và tiếp cận văn bản sẽ đem lại giá trị thực dụng cho các bộ môn văn
học, đồng thời cũng mở ra sinh lộ cho ngành đại học này.
4.Capitalisme
cognitive là một khái niệm của giới kinh tế học mác xít Pháp, tương
đương với từ knowledge economy ở Mỹ. Đây là hình thái sản xuất cao cấp của
chủ nghĩa tư bản ngày nay, liên kết mật thiết với nghiên cứu đại học và tận
dụng chất xám như trong kỹ thuật và công nghệ tin học hoặc sinh học
5.Từng
giảng dạy nhiều năm ở Mỹ ( tại các đại học Yale và Pittsburg), Citton đề ra
một tổng hợp mới cho lý thuyết tiếp nhận văn học (reader-response và
reception), một mặt kết hợp minh giải luận (herméneutique) của Gadamer với
cộng đồng diễn giải (interpretive community) của Stanley Fish, mặt khác tiếp
thu các thành tựu nghiên cứu và phê bình văn học từ Ecole de Genève(Poulet,
Starobinski…)với cách đọc sáng tạo của Barthes trong khảo luận đang gây nhiều
tiếng vang trong học thuật văn học ở Pháp, Lire, Interpréter, Actualiser, Pourquoi les Études Littéraires? với
khái niệm then chốt lecture
actualisante.Cách đọc hoạt khởi (lecture actualisante) là cách tiếp cận
sinh động với văn bản khi người đọc làm sống lại nội dung của tác phẩm bằng
kinh nghiệm văn hóa và nghiệm sinh đặc thù của mình. Đây là một phương pháp
triết học minh giải mà Yves Citton đặt tên là ontologie herméneutique, khi văn bản với độc giả hòa nhập thành
một thực thể được thăng cấp về nhận thức và nhân cách xuyên qua nỗ lực diễn
giải các trang viết phức tạp và giàu ý nghĩa.
|
No comments:
Post a Comment