Kathryn VanSpanckeren
THƠ CA THỂ NGHIỆM
Phần lớn thơ đương đại nằm trong sự
thể nghiệm bắt đầu vào thập niên 50 với nhiều nhà thơ. Donald Allen, tác giả
của cuốn The New American Poetry (Thơ mới ở Mỹ) tuyển tập đầu tiên đã
đưa tác phẩm của những nhà thơ trước đây bị các nhà phê bình và các tổ chức hàn
lâm bỏ qua, đã chia một cách khái quát nhóm nhà thơ này thành 5 trường phái.
Lấy cảm hứng từ nhạc Jazz và hội họa
trừu tượng, hầu hết những tác gia thể nghiệm trẻ hơn Lowell một thế hệ. Họ có
khuynh hướng trở thành những trí thức tự do, phóng túng, phản lại văn hóa chính
thống, không tuân theo những quy ước chung, thoát ly khỏi các học viện và phê
bình một cách thẳng thắn xã hội “trưởng giả” Mỹ. Thơ của họ có tính dấn thân,
độc đáo và đôi lúc gây chấn động. Trong khi kiếm tìm những giá trị mới, dòng
thơ này bày tỏ mối quan tâm đối với thế giới cổ xưa của thần thoại, truyền
thuyết, cũng như nếp sinh hoạt xã hội bộ lạc của người Mỹ Da đỏ. Hình thức thơ
khoáng đạt hơn, tự nhiên hơn, có hệ thống hơn; phát triển từ chủ đề và cảm nhận
tươi mới của nhà thơ khi đang làm bài thơ và từ những chỗ ngừng nghỉ tự nhiên
của ngôn ngữ nói. Như Allen Ginberg ghi nhận trong “Improvised Poetics” (Thơ
ứng tác), rằng “ý nghĩ đầu tiên là ý nghĩ hay nhất”.
TRƯỜNG PHÁI BLACK MOUNTAIN
Trường phái Back Mountain tập trung
xung quanh đại học Black Mountain, một đại học về các loại nghệ thuật thử
nghiệm ở Asheville bang Bắc Carolina, nơi các thi sĩ Charles Olson, Robert
Duncan và Robert Creeley giảng dạy vào đầu thập niên 50. Ed Dorn, Joel
Oppenheimer và Jonathan Williams học tập ở đó, còn Paul Blackburn, Larry Eigner
và Denise Levertov công bố tác phẩm trên tạp chí nhà trường, Origin và Black
Mountain Review. Trường phái Black Mountain gắn liền với lý thuyết “thơ dự
phóng” của Charles Olson, nhấn mạnh đến hình thức cởi mở dựa trên nhịp điệu tự
nhiên của sự ngắt nghỉ, lấy hơi trong khi nói và hàng chữ đánh máy ở dạng viết.
Robert Creeley (1926 -) theo phương
châm ý tại ngôn ngoại, rất kiệm lời, là một trong những nhà thơ quan trọng của
trào lưu Black Mountain. Trong bài “The Warning” (Lời cảnh tỉnh - 1955),
Creeley hình dung ra một lối liên tưởng vừa đáng yêu, vừa dữ dội:
Vì tình yêu - Anh sẽ
chẻ dọc đầu em ra và đặt
ngọn đèn cầy
đằng sau đôi mắt.
Tình trong ta đã chết
nếu ta quên
đức hạnh của chiếc bùa
và sự ngạc nhiên chóng vánh.
chẻ dọc đầu em ra và đặt
ngọn đèn cầy
đằng sau đôi mắt.
Tình trong ta đã chết
nếu ta quên
đức hạnh của chiếc bùa
và sự ngạc nhiên chóng vánh.
TRƯỜNG PHÁI SAN FRANCISCO
Sáng tác của trường phái San
Francisco -bao gồm hầu hết thơ ở vùng Bờ Tây nói chung -chịu rất nhiều ảnh
hưởng của triết học và tôn giáo phương Đông cũng như thơ Nhật Bản và Trung
Quốc. Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì ảnh hưởng của phương Đông vẫn
luôn mạnh mẽ ở vùng Bờ Tây nước Mỹ. Vùng đất quanh San Francisco -vùng núi
Sierra Nevada và vùng bờ biển khúc khuỷu -luôn đáng yêu và hùng vĩ, và các nhà
thơ ở vùng này có khuynh hướng có một cảm xúc sâu nặng với thiên nhiên. Nhiều
bài thơ của họ có chất liệu từ phong cảnh rừng núi hay những chuyến ngao du sơn
thủy. Thơ họ lấy thiên nhiên làm nguồn cảm hứng chủ đạo thay cho truyền thống
văn học.
Các nhà thơ San Francisco gồm có
Jack Spicer, Lawrence Ferlinghetti, Robert Duncan, Phil Whalen, Lew Welch, Gary
Snyder, Kenneth Rexroth, Joanne Kyger và Diane diPrima. Nhiều người trong số
các nhà thơ này gắn bó chặt chẽ và có mối đồng cảm với quần chúng lao động. Thơ
họ thường đơn giản, dễ cảm thụ và lạc quan.
Ở giai đoạn cao trào, như có thể
thấy trong tác phẩm của Gary Snyder (1930), thơ của trường phái San Francisco
gợi lên được sự cân bằng tinh tế giữa cá nhân và vũ trụ. Trong bài “Above Pate
Valley” (Trên thung lũng Pate - 1955) của Snyder, nhà thơ mô tả công việc của
một nhóm làm đường trên núi cao và tìm ra những mảnh đầu mũi tên làm bằng đá
nham thạch của những bộ lạc Da đỏ đã biến mất:
Trên một ngọn đồi tuyết phủ quanh
năm trừ lúc hè
sang
Một vùng đất đầy nai mùa hạ béo vàng
Họ đến dựng lều. Trên những đường mòn của họ
Theo đường mòn của mình tôi lê bước tới đây
Nhặt lên đầu mũi tên này
Nhặt và bỏ vào trong giỏ
Những nham thạch
Mười ngàn năm về trước
sang
Một vùng đất đầy nai mùa hạ béo vàng
Họ đến dựng lều. Trên những đường mòn của họ
Theo đường mòn của mình tôi lê bước tới đây
Nhặt lên đầu mũi tên này
Nhặt và bỏ vào trong giỏ
Những nham thạch
Mười ngàn năm về trước
CÁC NHÀ THƠ “BEAT”
Trường phái San Francisco hòa nhập
thành một nhóm mới - các nhà thơ “Beat”, xuất hiện vào những năm 50. Hầu hết
những nhà thơ quan trọng của nhóm Beat (Beatniks) từ Bờ Đông chuyển đến San
Francisco. Chính ở California này họ đạt được thành công ban đầu trên cả nước ở
California. Những thi sĩ chủ yếu của nhóm Beat gồm có Allen Ginsberg, Gregory
Corso, Jack Kerouac, và William Burroughs. Thơ của nhóm Beat là để đọc, được
lặp đi lặp lại và có hiệu quả rất lớn khi diễn đọc hay diễn ngâm, chủ yếu bởi
vì nó được phát triển từ những buổi đọc thơ trong những câu lạc bộ ở tầng hầm.
Nhiều người có lẽ nhận định đúng khi cho nó là ông tổ của loại nhạc Rap rất
thịnh hành vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
Thơ của nhóm Beat là thể loại văn
học chống lại văn học chính thống quyết liệt nhất ở Hoa Kỳ, nhưng thực chất bên
dưới những ngôn từ gây chấn động của nó ấp ủ một tình yêu đất nước. Thơ của họ
là tiếng kêu gào của khổ đau và cuồng nộ cho cái điều mà các nhà thơ coi như sự
đánh mất đi nét thơ ngây của nước Mỹ và sự phung phí kinh khủng những nguồn tài
nguyên nhân lực và vật lực của nó.
Những bài thơ như Howl (1956) của
Allen Ginberg thực sự đã làm một cuộc cách mạng trong thơ ca:
Tôi chứng kiến những bộ óc siêu việt
nhất
của thế hệ chúng tôi hủy hoại
bởi chứng khùng điên, đói khát cuồng dại trần truồng
lê tấm thân dọc phố Da đen
trong ánh bình minh
tìm liều thuốc cho cơn giận dữ
những kẻ biết mình như những thiên thần lao vào ngọn lửa
cho một thiên đường cổ xưa
liên kết các vì sao
năng lượng
trong bộ máy của đêm.
của thế hệ chúng tôi hủy hoại
bởi chứng khùng điên, đói khát cuồng dại trần truồng
lê tấm thân dọc phố Da đen
trong ánh bình minh
tìm liều thuốc cho cơn giận dữ
những kẻ biết mình như những thiên thần lao vào ngọn lửa
cho một thiên đường cổ xưa
liên kết các vì sao
năng lượng
trong bộ máy của đêm.
TRƯỜNG PHÁI NEW YORK
Khác với nhóm các nhà thơ Beat và
những nhà thơ San Francisco, các nhà thơ của trường phái New York thể hiện sự
bàng quan đối với những vấn đề đạo lý một cách công khai, và nói chung họ lẩn
tránh chính trị. Họ có được một nền giáo dục chính thống hơn bất kỳ một nhóm
thơ nào.
Những nhân vật cự phách của trường
phái New York gồm: John Ashbery, Frank O’Hara, và Kenneth Koch -gặp nhau lúc họ
còn chưa tốt nghiệp Đại học Harvard. Họ cực kỳ tân tiến, điềm đạm, không có tín
ngưỡng, thông minh sắc sảo có pha chút khinh bạc và thời thượng một cách cao nhã.
Thơ của họ có tiết tấu nhanh, nội dung xoay quanh cuộc sống đô thị, thiếu một
sự hài hòa, hầu như có thể cảm nhận được ý nghĩa về niềm tin hết sức chông
chênh của họ.
Thành phố New York là trung tâm mỹ
thuật của nước Mỹ và là cái nôi của chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, là nguồn
cảm hứng chủ yếu cho dòng thơ này. Hầu hết những nhà thơ này đều là những nhà
phê bình nghệ thuật hoặc những nhà quản lý các bảo tàng nghệ thuật, hoặc hợp
tác với cánh họa sĩ. Có thể là do cảm nhận của họ với nghệ thuật trừu tượng,
một trường phái nghệ thuật vốn không tin vào những hình thể chân thực và ý
nghĩa rõ ràng, tác phẩm của các nhà thơ này thường khó hiểu, như trong những
tác phẩm sau này của John Ashbery (1927 -...), có lẽ là thi sĩ đương đại có ảnh
hưởng lớn nhất ngày nay.
Mạch thơ dào dạt của Ashbery ghi lại
những suy nghĩ và niềm xúc cảm khi chúng tràn nhanh qua đầu óc khó có thể trực
tiếp phát thành lời. Bài thơ dài, lắng sâu của ông Self-Portrait in a Convex
Mirror (Chân dung tự họa trong một tấm gương lồi - 1975), đoạt 3 giải
thưởng lớn; lướt đi như một cánh chim từ ý nghĩ này qua ý nghĩa khác, thường
chiêm nghiệm lại chính nó:
Một con tàu
Treo những màu sắc không ai biết đã
đi vào cảng
Bạn đang để cho những chuyện không đâu
ngoài lề
phá vỡ một ngày của bạn...
Treo những màu sắc không ai biết đã
đi vào cảng
Bạn đang để cho những chuyện không đâu
ngoài lề
phá vỡ một ngày của bạn...
CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC VÀ CHỦ NGHĨA
HIỆN SINH
Trong tuyển tập nhằm xác định những
trường phái thi ca mới, Donald Allen đã đưa ra nhóm thứ năm ông không thể gọi
tên được bởi vì nó không có một địa điểm địa lý rõ ràng. Nhóm thơ khó xác định
này bao gồm các trào lưu và những thể nghiệm hiện đại.
Nổi bật trong số này là những nhà
thơ siêu thực, diễn đạt vô thức qua những hình ảnh sống động như trong mơ và
rất nhiều thơ do phụ nữ và những cộng đồng thiểu số sáng tác đã phát triển rực
rỡ trong những năm gần đây. Mặc dầu có những nét khác biệt bề ngoài rất lớn,
các nhà thơ siêu thực, các nhà thơ đấu tranh cho quyền phụ nữ và các nhà thơ
thuộc cộng đồng thiểu số tỏ ra rằng họ cùng chia sẻ với nhau một ý thức thoát
ly khỏi nền văn học “chính thống”, của người Da trắng và của người đàn ông.
Cho dù T. S. Eliot, Wallace Stevens
và Ezra Pound đã cố công đưa những kỹ thuật của trào lưu tượng trưng vào thi ca
Mỹ vào thập niên 20, chủ nghĩa siêu thực - dòng chảy chính trong thi ca và tư
tưởng ở châu Âu trong và sau Thế chiến II, đã không bén rễ được ở Mỹ. Mãi cho
đến những năm 60 chủ nghĩa siêu thực (cùng với chủ nghĩa hiện sinh) mới trở nên
quen thuộc với người Mỹ dưới áp lực của cuộc chiến ở Việt Nam. Trong những năm
60, nhiều tác giả Mỹ như -W. S. Merwin, Robert Bly, Charles Simic, Charles
Wright và Mark Strand cùng những người khác đã quay về với chủ nghĩa Siêu thực
Pháp và đặc biệt là Tây Ban Nha để tìm lại những xúc cảm thuần khiết, những
hình tượng lý tưởng, và những kiểu mẫu, bất an mang tính hiện sinh và phi lý
của nó.
Những nhà thơ siêu thực như Merwin
có khuynh hướng châm biếm sắc sảo như trong những câu thơ sau: “Thánh thần muốn
thành người nhưng không được/ Nếu anh thấy mình chẳng còn tin nữa thì hãy mở
rộng đền thờ”.
Chủ nghĩa siêu thực có khuynh hướng
chính trị của Bly phê phán một cách gay gắt những giá trị Mỹ và chính sách đối
ngoại của chính phủ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam như trong bài thơ “The
Teeth Mother Naked at Last”:
Chỉ vì chúng ta có bao bì mới cho
sò hun khói
mà những hố bom hiện ra trên những
ruộng lúa.
sò hun khói
mà những hố bom hiện ra trên những
ruộng lúa.
Ảnh hưởng lan rộng của thơ ca siêu
thực đã dịu đi và đầy suy tư hơn như Charles Wright mô tả trong “The New Poem”
(Thơ mới - 1973):
Nó sẽ không tham dự vào nỗi buồn của
chúng ta
Cũng chẳng an ủi
con cái chúng ta
Và sẽ không giúp gì cho ta cả.
Cũng chẳng an ủi
con cái chúng ta
Và sẽ không giúp gì cho ta cả.
Chủ nghĩa Siêu thực của Mark Strand,
cũng như của Merwin, thường ảm đạm; nó nói đến một sự tước đoạt cực độ. Với
ông, truyền thống, giá trị, niềm tin chả là gì cả, nhà thơ chẳng có gì ngoài
tâm hồn tăm tối như hang động của mình:
Trong tay có chìa khóa
Tôi mở cửa bước vào
Tối tăm tôi bước vào
Thẳm đen tôi bước tiếp.
Tôi mở cửa bước vào
Tối tăm tôi bước vào
Thẳm đen tôi bước tiếp.
CÁC NHÀ THƠ NỮ VÀ CÁC NHÀ THƠ ĐA
CHỦNG TỘC
Nền văn học của phái nữ, cũng như
văn học của các cộng đồng thiểu số và chủ nghĩa siêu thực, lần đầu tiên nhận
thức được vai trò của chính mình là một động lực trong đời sống nước nhà trong
những năm cuối thập niên 60. Các dòng thơ này đã nở rộ trong phong trào nữ
quyền cũng phát sinh trong thời kỳ đó.
Văn học ở Mỹ, cũng như ở hầu hết các
quốc gia khác, từ lâu đặt cơ sở quá nhiều trên những tiêu chuẩn của phái nam
đến độ thường bỏ qua sự đóng góp của phái nữ. Tuy vậy, có nhiều nhà thơ nữ nổi
bật trong thi đàn Mỹ. Không phải họ đều là những người ủng hộ nữ quyền, cũng
không phải những chủ đề của họ nhất loạt nói lên những mối quan tâm của phụ nữ.
Chẳng qua, họ chỉ là những nhà thơ của nỗi buồn nhân thế. Những khác biệt về
địa lý, chính trị và chủng tộc cũng góp phần hình thành nên tác phẩm của họ và
đặt ra cho họ những vấn đề để suy nghĩ. Những nhà thơ nữ nổi bật gồm có Amy
Clampitt, Rita Dove, Louise Glück, Jorie Graham, Carolyn Kizer, Maxine Kumin,
Denise Levertov, Audre Lorde, Gjertrud Schnackenberg, May Swenson và Mona Van
Duyn.
Nửa sau thế kỷ 20 đã chứng kiến sự
hồi sinh của văn học đa chủng tộc. Khởi đầu vào thập niên 60, theo sự mở đường
của người Mỹ Da đen, những tác giả thuộc các chủng tộc khác ở Mỹ bắt đầu tạo
được sự chú ý của công chúng. Trong thập niên 70, những chương trình nghiên cứu
nhân chủng học được triển khai. Trong những năm 80, một số tạp chí hàn lâm, các
tổ chức chuyên ngành, và sách báo văn học dành cho những chủng tộc khác nhau
được ra đời. Còn vào thập kỷ 90, các hội nghị nghiên cứu về văn học các sắc tộc
riêng biệt đã bắt đầu và danh sách chính thức của các tác phẩm kinh điển đã
được mở rộng để đưa thêm những tác gia thuộc các dân tộc ít người vào trong các
tuyển tập và giáo trình. Những vấn đề quan trọng trong nền văn học này bao gồm chủng
tộc chống lại sự xếp loại sắc tộc, chủ nghĩa vị chủng tộc chống lại chủ nghĩa
đa chủng tộc, chủ nghĩa một ngôn ngữ chống lại đa ngôn ngữ, sự kết hợp chống
lại sự loại bỏ. Sự phá bỏ kết cấu (giải cấu)([2]),
áp dụng cho cả ngữ cảnh chính trị lẫn văn học, đã thường xuyên đặt nghi vấn với
nguyên trạng (tình trạng hiện tại).
Thơ ca của cộng đồng thiểu số cũng
chia sẻ với văn học của phụ nữ sự phong phú và đôi khi sự giận dữ của nó với xã
hội. Nó nảy nở trong những năm gần đây giữa những người Mỹ gốc Tây Ban Nha như
Gary Soto, Alberto Rios và Lorna Dee Carvantes; giữa những người Mỹ gốc Da đỏ
như Leslie Marmon Silko, Simon Ortiz và Louise Erdrich; giữa những người Mỹ gốc
Phi châu như Amiri Baraka (LeRoi Jones), Michael Harper, Rita Dove, Maya
Angelou và Nikki Giovanni; và trong số những nhà thơ Mỹ gốc châu Á như Cathy
Song, Lawson Inada và Janice Mirikitani.
THƠ CA CỦA NGƯỜI MỸ GỐC LATIN, TÂY
BAN NHA VÀ MEXICO
Thơ ca ảnh hưởng Tây Ban Nha bao gồm
tác phẩm của nhiều nhóm khác nhau. Trong số này có những người Mỹ - Mexico, từ
thập niên 50 quen gọi là Chicano, đã sống qua nhiều thế hệ ở những tiểu bang
Tây Nam mà Hoa Kỳ chiếm của Mexico trong cuộc chiến tranh Mỹ - Mexico kết thúc
vào năm 1848. Trong số cư dân vùng Caribbean nói tiếng Tây Ban Nha, người Mỹ
gốc Cuba và người Puerto Rico vẫn duy trì và phát triển truyền thống văn học
đầy sức sống và độc đáo của họ. Ví dụ, những người Mỹ gốc Cuba rất tài năng với
thể loại hài kịch đã tự tách ra khỏi thể thơ trữ tình bi thương của những tác
giả gốc Mexico như Rudolfo Ayana. Những nhà văn di cư gần đây từ Mexico; Trung,
Nam Mỹ và Tây Ban Nha đến, liên tục bổ sung và làm lớn mạnh thêm dòng văn học
này.
Thơ ca người Mỹ-Chicano hay gốc
Mexico có một truyền thống truyền miệng phong phú bằng thể loại corrido
hay ballad. Những tác phẩm gần đây nhấn mạnh sức mạnh truyền thống của
cộng đồng Mexico và sự kỳ thị họ gặp phải với người gốc châu Âu. Đôi lúc, các
nhà thơ pha trộn những từ tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha với nhau thành một sự
pha trộn rất nên thơ, như trong thơ của Alurista và Gloria Anzaldúa. Thơ của họ
chịu nhiều ảnh hưởng của truyền thống truyền khẩu và có âm hưởng rất mạnh mẽ
khi đọc thành tiếng.
Nhiều nhà thơ viết chủ yếu bằng
tiếng Tây Ban Nha theo một truyền thống bắt nguồn từ thiên sử thi đầu tiên được
viết ra trong nước Mỹ hôm nay. Bài thơ Historia de la Nueva Mexico (Lịch
sử Mexico mới) của Gaspar Pérez de Villagrá ca ngợi trận chiến năm 1598 giữa
những kẻ xâm lược Tây Ban Nha và người Da đỏ ở Acoma bang New Mexico. Một tác
phẩm quan trọng trong thơ ca người Mỹ gốc Mexico gần đây, tập thơ I Am
Joaquin (Tôi là Joaquin) của Rodolfo Gonzales (1928 - ), than vãn về tình
cảnh của người Mỹ gốc Mexico:
Lạc loài trong thế giới hỗn mang
Bị cuốn theo cơn xoáy lốc một xã hội ngoại bang
Những luật lệ rối rắm,
Những thái độ rẻ khinh
Và mánh khóe, dối lừa
Bị hủy hoại bởi cái được gọi là xã hội hiện đại.
Bị cuốn theo cơn xoáy lốc một xã hội ngoại bang
Những luật lệ rối rắm,
Những thái độ rẻ khinh
Và mánh khóe, dối lừa
Bị hủy hoại bởi cái được gọi là xã hội hiện đại.
Tuy nhiên, nhiều tác giả Mỹ gốc
Mexico tìm thấy nguồn sống trong cội nguồn Mexico cổ xưa của mình. Nghĩ về thời
xưa huy hoàng của Mexico, Lorna Dee Cervantes (1954-...) viết rằng “một corrido
sử thi” đang ngân nga trong huyết quản của bà, còn Luis Omar Salinas (1937-...)
cảm thấy mình là “một thiên thần Aztec”. Phần lớn thơ ca người Mỹ -Mexico rất
người, nói lên những cảm xúc và quan hệ gia đình hay về những thành viên trong
cộng đồng. Gary Soto (1952-...) dựa vào truyền thống cổ xưa ca tụng tổ tiên đã
ra đi. Những lời thơ này, viết vào năm 1981, mô tả hiện trạng đa văn hóa của
tất cả người Mỹ hôm nay:
Một ngọn nến thắp lên cho người đã
khuất
Trước mặt ta hai thế giới đón chờ
Trước mặt ta hai thế giới đón chờ
Trong những năm gần đây, thơ ca của
người Mỹ -Mexico đã tiến một bước rất xa và những tác phẩm của Cervantes, Soto
và Alberto Rios đã được giới thiệu rộng rãi trong các tuyển tập.
THƠ CA CỦA NGƯỜI MỸ DA ĐỎ
Người Mỹ Da đỏ đã có một nền thi ca
trau chuốt, có lẽ do truyền thống sáng tác những bài ca ngợi ca linh vật đóng
một vai trò tối quan trọng trong di sản văn hóa của họ. Tác phẩm của họ vượt
trội lên bởi sự khơi gợi đầy hình ảnh sống động về thế giới tự nhiên, mà đôi
khi gây hiệu quả hầu như huyền bí. Các thi sĩ Da đỏ cũng lên tiếng về một cảm
thức bi đát việc đánh mất di sản phong phú không gì bù đắp nổi của dân tộc
mình.
Simon Ortiz (1914 -...), một cư dân
tộc Acoma, viết nhiều bài thơ có sức tác động sâu xa dựa vào lịch sử khám phá
những nghịch lý của việc là một người Mỹ Da đỏ trong nước Mỹ ngày nay. Thơ của
ông thách thức các độc giả gốc Anglo -Saxon vì nó thường nhắc nhở họ về sự bất
công và tàn bạo mà một thời cha ông họ đã dành cho người Mỹ Da đỏ. Những bài
thơ của ông cũng là một tri kiến về sự hòa hợp chủng tộc dựa trên sự thông hiểu
sâu sắc lẫn nhau.
Trong tập thơ Star Quilt (Tấm
chăn dệt bằng các vì sao), Roberta Hill Whiteman (1947- ), một người bộ lạc Oneida,
hình dung một tương lai đa văn hóa như là “một tấm chăn dệt bằng những vì sao
trong ánh rạng đông”, còn Leslie Marmon Silko (1948 -...), có một phần gốc gác
là bộ lạc Laguna, sử dụng ngôn ngữ nói và những câu chuyện truyền thống để sáng
tác những bài thơ trữ tình, có sức ám ảnh khó quên. Trong bài “In Cold Storm
Light” (Trong ánh sáng cơn bão tuyết - 1981), Silko tạo được hiệu quả như trong
thơ haiku:
Những con nai tuyết
hiện ra trên trời tuyết băng dày đặc
phóng như bay
chạy nhanh
xoáy quanh những ngọn cây
Gió bão
bài ca màu trắng
lướt đi, lướt đi
trên những cành cây.
hiện ra trên trời tuyết băng dày đặc
phóng như bay
chạy nhanh
xoáy quanh những ngọn cây
Gió bão
bài ca màu trắng
lướt đi, lướt đi
trên những cành cây.
Louise Erdrich (1954-...) là một
tiểu thuyết gia như Silko, sáng tạo những đoạn độc thoại mạnh mẽ giàu kịch tính
có thể xem là những vở kịch được nén lại. Chúng mô tả một cách không khoan
nhượng những gia đình phải đương đầu với tệ nghiện rượu, thất nghiệp và nghèo
khổ trong “vùng bảo tồn” Chippewa.
Trong bài thơ “Family Reunion “ (Gia
đình sum họp - 1984), một ông chú nghiện rượu, thô lỗ trở về sau nhiều năm sống
ở thành phố. Vì ông bị đau tim, người cháu bị hành hạ và là người kể chuyện,
nhớ lại cảnh ông chú đã giết một con rùa lớn cách đây nhiều năm bằng cách nhét
pháo vào con rùa đó. Đoạn cuối bài thơ gắn chú Ray với con rùa nạn nhân của
ông:
Rồi chúng ta tìm lại đường về
Chú Ray
hát bài ca xưa cho người
kéo chú
về nhà. Đôi tay ông đã thành
vây xám
ghì siết vào bảng đồng hồ.
Khuôn mặt ông
mang vẻ kiên nhẫn lạ kỳ, lặng lẽ của
một đứa trẻ luôn luôn
bỏ mặc những vết thương, hay của một
sinh vật đã sống
thời gian dài dưới nước. Và
những thiên thần bay đến
hạ thòng lọng và cáng xuống.
Chú Ray
hát bài ca xưa cho người
kéo chú
về nhà. Đôi tay ông đã thành
vây xám
ghì siết vào bảng đồng hồ.
Khuôn mặt ông
mang vẻ kiên nhẫn lạ kỳ, lặng lẽ của
một đứa trẻ luôn luôn
bỏ mặc những vết thương, hay của một
sinh vật đã sống
thời gian dài dưới nước. Và
những thiên thần bay đến
hạ thòng lọng và cáng xuống.
THƠ CA MỸ DA ĐEN
Người Mỹ Da đen đương đại đã sáng
tác nhiều bài thơ tuyệt mỹ với nhiều chủ đề và giọng điệu phong phú. Đây là
dòng thơ sắc tộc phát triển nhất ở Mỹ và cực kỳ đa dạng. Amiri Baraka (1934
-...) nhà thơ Mỹ Da đen nổi tiếng nhất, cũng viết nhiều vở kịch và đóng vai trò
tích cực trong hoạt động chính trị. Những sáng tác của Maya Angelou bao quát
nhiều thể loại, trong đó có nhiều vở kịch, một hồi ký nổi tiếng I know Why
the Caged Bird Sings (Tôi biết vì sao chim hót trong lồng - 1970), và một
tuyển tập thơ Just Give Me a Cool drink of Water ’fore I Diiie (Hãy cho
tôi một hớp nước mát trước khi tôi chết - 1971). Angelou đã được mời sáng tác
một bài thơ cho lễ nhậm chức của Tổng thống Bill Clinton vào năm 1993.
Một nhà thơ Mỹ Da đen khác được ca
ngợi gần đây là Rita Dove (1952- ) người được phong tặng là nhà thơ của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ năm 1993. Dove, một nhà văn viết tiểu thuyết và kịch, đoạt
giải thưởng Pulitzer 1987 nhờ cuốn Thomas and Beulah (Thomas và Beulah),
trong đó bà ca ngợi ông bà của mình qua một loạt bài thơ trữ tình. Bà nói rằng
bà viết tác phẩm này để thể hiện cuộc sống nội tâm phong phú của quần chúng vô
sản.
Micheal Harper (1938- ) đã viết
những vần thơ tương tự phơi bày cuộc sống phức tạp của người Mỹ Da đen đối mặt
với sự phân biệt chủng tộc và bạo lực. Những bài thơ cô đọng, bóng gió của ông
thường tái hiện những khung cảnh đông đúc, đầy kịch tính của chiến tranh hay
đời sống đô thị. Chúng sử dụng hình ảnh của ngành y với cố gắng chữa lành bệnh
tật. Bài thơ “Clan Meeting: Births and Nation: A Blood Song” (Cuộc họp mặt bè
đảng: Những con người ra đời và những quốc gia: Bài ca máu (1971) của ông, ví
việc nấu nướng với phẫu thuật, “đan kết thịt cùng chất lỏng” mở đầu như sau:
“Chúng ta tái tạo mạng sống trong khu chăm sóc đặc biệt, gắn kết vào nhau trong
một quán ăn...”. Bài thơ kết thúc bằng cách xâu lại những hình ảnh về bệnh
viện, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong bộ phim Mỹ thời kỳ đầu Birth of a
Nation (Sự ra đời của một quốc gia) phong trào Ku Klux Klan[3],
biên tập phim và kỹ thuật X-quang:
Chúng ta lại chất đầy óc như chiếc
máy quay phim,
cuộn phim phơi bày quá độ
dưới tia X-quang,
khóa chặt với hai lớp cửa
nhịp phách nhẹ nhàng: chủng tộc và giới tính
cuộn vào và bao vây trong một trò tiêu khiển
chúng ta ôm khăn gói rồi về nhà.
cuộn phim phơi bày quá độ
dưới tia X-quang,
khóa chặt với hai lớp cửa
nhịp phách nhẹ nhàng: chủng tộc và giới tính
cuộn vào và bao vây trong một trò tiêu khiển
chúng ta ôm khăn gói rồi về nhà.
Lịch sử, nhạc Jazz, và văn hóa đại
chúng mang lại cảm hứng cho nhiều nhà văn Mỹ Da đen, từ Harper (giáo sư đại
học) đến chủ nhà xuất bản kiêm nhà thơ ở Bờ Tây Ishmael Reed (1938 -), nổi
tiếng do việc đi tiên phong trong nền văn học đa văn hóa qua tổ chức Before
Columbus Foundation và một loạt tạp chí như Yardbird, Quilt và Konch.
Nhiều nhà thơ Mỹ Da đen như Audre Lorde (1934 - 1992) tìm thấy nguồn sáng tạo ở
chủ nghĩa vị châu Phi, xem Phi châu là trung tâm của nền văn minh từ thời cổ
đại. Trong những bài thơ đầy xúc cảm như “The Women of Dan Dance with Swords in
Their Hands to Mark the Time When They Were Warriors (Những người phụ nữ của
Dan nhảy múa với lưỡi kiếm trong tay đánh dấu cái thời họ là các chiến binh),
bà nói như một người nữ chiến binh của Dahomey cổ đại, “làm ấm áp bất cứ cái gì
ta chạm đến” và chỉ “tiêu hóa” “những gì đã chết”.
THƠ CA CỦA NGƯỜI MỸ GỐC CHÂU Á
Cũng như thơ ca của những tác giả Mỹ
gốc Mexico và Tây Ban Nha, thơ ca của người Mỹ gốc Á cực kỳ đa dạng. Người Mỹ
gốc Nhật, Trung Quốc, Philipines có lẽ đã sống đến bảy đời ở Mỹ, còn người Mỹ
gốc Hàn Quốc, Thái Lan và Việt Nam là những người di cư mới gần đây. Mỗi nhóm
phát xuất từ một truyền thống văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ riêng. Những tiến bộ
gần đây trong văn học Mỹ gốc Á châu bao gồm trong việc nhấn mạnh đến những công
trình nghiên cứu Vành đai Thái Bình Dương và văn học phụ nữ. Các nhà văn Mỹ gốc
châu Á nói chung chối bỏ mẫu mực chủng tộc có tính cách Đông phương hóa như một
thiểu số “xa lạ” và “tốt đẹp”. Các nhà mỹ học đang bắt đầu so sánh các truyền
thống văn học Á và Âu -chẳng hạn so sánh khái niệm đạo (tao) của phương Đông và
luận lý (logos) của Hy Lạp cổ.
Các nhà thơ Mỹ gốc Á đã tiếp thu từ
nhiều nguồn văn hóa, từ ca kịch của Trung Quốc đến Thiền. Những truyền thống
văn học châu Á, đặc biệt là Thiền, tạo nguồn cảm hứng cho nhà thơ không phải
gốc châu Á, như có thể thấy trong tuyển tập Beneath a Single Moon: Buddhism
in Contemporary American Poetry (Dưới vầng trăng lẻ: Phật Giáo trong thi ca
Mỹ đương đại - 1991). Những nhà thơ Mỹ gốc châu Á trải rộng như một quang phổ,
từ vị thế tưởng như không tín ngưỡng như Frank Chin, đồng chủ biên cuốn Aiiieeeee!
(một tuyển tập đầu tiên của văn học Mỹ châu Á), cho đến các tác giả vận dụng
truyền thống một cách rộng rãi như nhà văn Maxine Hong Kingston (1940- ).
Janice Mirikitani - một sansei (người Mỹ gốc Nhật thế hệ thứ 3), làm sống dậy
lịch sử Mỹ - Nhật và đã xuất bản nhiều tuyển tập như Third World Women (Phụ
nữ thế giới thứ 3), Time to Greez (Thời gian đến Greez), và Ayumi:
Four Generations of Japanese in American (Ayumi: Thế hệ người Nhật thứ 4 ở
Mỹ).
Tuyển tập thơ trữ tình Picture
Bride (Bức ảnh cô dâu - 1983) của Cathy Song người Mỹ gốc Hoa (1955- ) cũng
kịch hóa lịch sử qua những cuộc đời trong gia đình bà. Nhiều nhà thơ Mỹ châu Á
khám phá sự đa dạng văn hóa. Trong “The Vegetable Air” (Không gian rau quả -
1988) của Song, một thị trấn tồi tàn với đàn bò thả trên quảng trường, một quán
ăn Tàu, một tấm bảng quảng cáo Coca-Cola treo lệch trở thành biểu tượng của
cuộc sống đương đại đa văn hóa không cội rễ 238 239 chỉ có thể chịu đựng được
nhờ nghệ thuật, trong trường hợp này là vở opera trong một băng cassette:
Rồi một bản aria quen thuộc
vươn lên như một vầng trăng,
nâng chính anh ra khỏi xác thân này
đưa anh đến một miền đất khác
nơi, trong phút giây, anh bay lượn nhẹ nhàng.
vươn lên như một vầng trăng,
nâng chính anh ra khỏi xác thân này
đưa anh đến một miền đất khác
nơi, trong phút giây, anh bay lượn nhẹ nhàng.
NHỮNG HƯỚNG ĐI MỚI
Những hướng mới trong thơ ca Mỹ bao
gồm “những nhà thơ ngôn ngữ” được gán một cách dễ dàng với tạp chí Temblor. Họ
gồm có Bruce Andrews, Lyn Hejinian, Douglas Messerli (chủ biên cuốn “Language”
Poetries: An Anthology (Tuyển tập thơ ca “ngôn ngữ” - 1987), Bob Perelman
và Barret Watten, tác giả cuốn Total Syntax (Cú pháp tổng thể - 1985),
một tuyển tập tiểu luận. Họ kéo dãn ngôn ngữ để thể hiện tiềm năng của nó trong
tính mơ hồ, sự phân đoạn và tự khẳng định bên trong những mớ bòng bong chua cay
và hậu hiện đại; họ chối bỏ những lối văn “siêu kể chuyện” - những ý thức hệ,
những giáo điều, những quy ước -và hoài nghi sự hiện hữu của thực thể siêu
nhiên. Michael Palmer viết:
Đây chính là Thiên đường, một cuốn sách
mốc meo bỏ quên quá lâu trong căn nhà
Bài “Chronic Meanings” ( Những nét
nghĩa tồi tệ) của Bob Perelman mở đầu như thế này:
Mỗi dữ kiện riêng tư là một vấn đề
Chỉ năm từ để nói
Bầu trời đen trong đêm, hợp lý hoàn toàn
Chỉ có tôi phần dư thừa phi lý.
Chỉ năm từ để nói
Bầu trời đen trong đêm, hợp lý hoàn toàn
Chỉ có tôi phần dư thừa phi lý.
Xem phê bình văn học và nghệ thuật
thực chất là mang tính cách ý thức hệ, họ chống lại những hình thức khép kín
của chủ nghĩa hiện đại, những tôn ti trật tự, những ý tưởng về sự hiển thánh và
sự siêu phàm, phạm trù của thể loại và những áng văn được chính thức thừa nhận
(những tác phẩm văn học được chấp nhận). Thay vì thế, họ đề nghị những hình
thức cởi mở và lối viết đa văn hóa. Họ đánh giá cao tính hình tượng trong văn
học đại chúng, các phương tiện truyền thông, thiết kế và tái thiết kế chúng.
Giống như thơ công diễn, những bài thơ ngôn ngữ thường phản đối sự giải thích
và mời gọi một sự tham gia.
Thơ ca hướng tới công diễn (kết hợp
với những cuộc trình diễn như những trường hợp của nhà soạn nhạc John Cage),
ứng tác nhạc Jazz, tác phẩm đa phương tiện, và chủ nghĩa siêu thực châu Âu đã
ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ Mỹ. Trong những tác gia nổi tiếng có Laurie
Anderson, tác giả của bài thơ nổi tiếng thế giới United States (Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ 1984), sử dụng phim, video, âm học, âm nhạc, vũ ballet và kỹ
thuật kỷ nguyên không gian. Thơ ca âm thanh, nhấn mạnh tiếng nói và nhạc cụ, do
các nhà thơ David Antin (nhà thơ trình diễn ứng khẩu) và các nhà thơ gốc New
York như George Quasha (chủ nhà xuất bản Station Hill Press), Armand Schwerner
và Jackson MacLow thực hiện. MacLow cũng trình làng một loại thơ giàu hình ảnh
cụ thể và tạo ra lối nói đầy hình ảnh bằng cách sử dụng sự xếp đặt và sắp chữ.
Thơ công diễn của các sắc tộc đi vào cùng dòng chảy với nhạc Rap, trong khi
khắp nước Mỹ “hội thơ” - những cuộc thi đọc thơ mở rộng tổ chức xen kẽ trong
những phòng tranh và hiệu sách -tạo cơ hội cho quần chúng tham gia giải trí có
giá trị tinh thần cao, ít tốn kém.
Ở đầu kia của quang phổ mang tính
chất lý thuyết là những nhà thơ tự phong là Tân hình thức chủ nghĩa, những 240
241 người chủ trương quay trở về hình thức, vần và vận luật. Tất cả mọi nhóm
đều phản ứng lại cùng một vấn đề - một sự bằng lòng có tính trung dung với hiện
trạng một giọng điệu cẩn thận và quá trau chuốt, thường là sản phẩm của những
cuộc hội thảo thơ, và sự nhấn mạnh thái quá đến thi ca bộc lộ cá tính như là
một cách chống lại động thái xã hội. Trường phái hình thức gắn liền với nhà
xuất bản Story Line Press; Dana Gioia (một nhà thơ - thương gia); Philip Dacey
và David Jauss, các nhà thơ và các chủ biên của cuốn Strong Measures:
Contemporary American Poetry in Traditional Forms (Phân loại chuẩn mực:
Những hình thức truyền thống trong thơ ca hiện đại Mỹ - 1986); Brad Leithauser;
và Gjertrud Schnackenburg. Cuốn The Direction of Poetry: Rhymed and Metered
Verse Written in English Since 1977 (Hướng đi của thi ca: thơ cách luật
trong tiếng Anh từ năm 1977) của Robert Richman là một tuyển tập mới xuất hiện
gần đây. Mặc dầu các nhà thơ này được xem là quay về với những đề tài thế kỷ
19, họ thường sử dụng những quan niệm và hình tượng đương đại, cùng với ngôn
ngữ giàu nhạc tính và những hình thức truyền thống, khép kín.
[1] Bài thơ này lấy cảm hứng từ Robert Gould Shan (1837-1863),
người lãnh đạo trung đoàn Da đen đầu tiên của miền Bắc trong cuộc nội chiến.
Ông hy sinh trong một cuộc tiến công ở nam Caroline. Dưới một bức phù điêu bằng
đồng do nhà điêu khắc Augustus Saint Gaudens thực hiện để tưởng niệm những
người chết ở trụ sở tiểu bang Massachusetts có một dòng chữ Latin “Omnia
Reliquit Servave Rem Publicam” có nghĩa là “Anh nằm xuống cho một nền cộng hòa”
Lowell đã thay đổi một chút trong lời đề từ cho bài thơ thành “Họ đã hy sinh
tất cả cho nền cộng hòa.” Chúng tôi lấy ý này để tạm dịch tựa đề bài thơ trên.
[2] Giải cấu (Deconstruction): một phương pháp phân tích văn
học ở Pháp giữa thế kỷ 20 dựa trên lý thuyết rằng không có văn bản nào có ý
nghĩa cố định, do bản chất của ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ đó.
[3] Còn được gọi là 3K, một tổ chức khủng bố những người.
No comments:
Post a Comment