Trần Thiện Huy
Trần gian là thế đấy ư?
Vậy thì, lại một lần nữa đi!
(“Zarathustra” – Nietzsche)
Mấy hôm trước lỡ dại nói chuyện thơ với biên tập viên – nhà thơ Đỗ Quyên, tôi liền bị phân công viết ngay một tiểu luận về thơ. Chẳng biết có phải anh Đỗ Quyên muốn tập cho tôi tính cẩn thận hơn khi lần sau mở miệng nói về một chuyện mình không biết chăng, vì thật sự anh biết rất rõ là tôi không có nghiên cứu về thơ, dù, cũng như những độc giả quan tâm đến các biến chuyển của văn học trung bình khác, tôi cũng có đọc thơ đôi khi.
Nói
 như thế, không phải tôi cho là thơ hiện đại đã đánh mất sự thu hút và 
không còn ý nghĩa đối với nhà phê bình. Những gì đã được nói ra có lẽ 
chỉ là những gì có thể được nói ra; đối với chúng ta, thơ hiện đại vẫn 
là một miền hoang hư kỳ ảo đầy những sinh vật kỳ lạ, mỗi loài có tiếng 
nói riêng của chính mình. Những mỏm đá, bãi hoang, những dòng sông, vũng
 lầy của nó biến hình liên tục truớc mắt nguời đọc, và bên ngoài phần 
lãnh thổ nhỏ nhoi đã có một dạng bản đồ tuơng đối khả dĩ, miền đất ấy 
vẫn thách đố chúng ta giải thích những đỉnh cao bí hiểm, cũng như những 
lối ngầm tối tăm của nó, và đứng truớc miền đất này, độc giả chúng ta 
lập lại những băn khoăn mà nguời Ấn Độ cổ xưa đã đặt vào lời nói của nữ 
thần Devi:
Hỡi Shiva, đâu mới là thực tại của người?
Vũ trụ đầy kỳ diệu này thực ra là gì?
Cái gì tạo thành chủng tử?
Ai làm trụ quay cho bánh xe toàn thể?
Cái gì là sự sống cao hơn hình tướng và nằm trong mọi hình tướng?
Làm thế nào người ta buớc hoàn toàn vào nó,
trên cả không gian và thời gian
tên gọi và mô tả?
Hãy giải trừ nghi vấn của ta!
Đến
 đây tôi bỗng gặp phải một cảm giác ngờ ngợ kỳ lạ, như mình vừa tìm thấy
 một điều gì phảng phất quen thuộc. Sực nhận ra, đã có những ý niệm khác
 tồn tại song song giữa thế giới của văn minh Ấn Độ cổ đại, và thơ ca 
của chúng ta ngày nay. Chúng ta đang tranh cãi về những điều mà có lẽ đã
 được tranh cãi từ ngàn xưa, vì cội cây trí tuệ được loài nguời thừa kế 
mỗi mùa sẽ phải ra trái lại một lần. Nhất là trong thời đại của chúng 
ta, không phải thiếu lý do để được coi là “thời của các tiên tri giả”, 
khi những ảo tuởng, dối trá và những chân lý xương máu có hàng ngàn năm 
tuổi va chạm quyết liệt với những gì mới mẻ - cũng bao gồm cả dối trá và
 chân lý trộn lẫn – chúng ta không thể tìm chỗ trú ẩn trong bất cứ sự 
khôn ngoan ước lệ nào, nhưng cũng cần được nhắc nhở là không một tập thể
 nào trong lịch sử lại đơn độc hay đặc thù trong việc khám phá các ý 
nghĩa bất tận của cuộc đời.
Đặc
 biệt, chính từ một thảo luận trong môi trường diễn đàn Hội Luận này gợi
 ngay cho tôi đến ý tưởng đặt song song ý tuởng của hai thời đại, không 
phải để so sánh – một việc làm muôn đời khập khiễng – mà để đạt đến một 
thái độ cảm thông muôn đời vốn là hành trang và nhu cầu thiết yếu nhất 
của sự phê bình. Mấy ngàn năm truớc khi Nguyễn Đình Chính viết những 
dòng này:
ối thơ ơi là thơ
cục cứt nát bay đi đâu bay giờ
cục cứt nát chỉ có chóp
cục cứt nát thì làm gì có cánh
và
giao hợp đi đồng bào ơi
phóng đạn tinh trùng
săn lùng tổ quốc
(những
 dòng mà chính tôi cũng còn ngại không muốn ghi lại), các bậc hiền giả 
của Ấn  Độ đã kiến giải như sau về con đường giác ngộ:
“Người
 khôn ngoan nên giải trừ những uế tạp trong tâm trí mình bằng sự uế tạp…
 con người phải vươn lên bằng chính cái mà qua đó mình đã ngã xuống.” (Hevajra Tantra). Kinh Candamaharosana Tantra
 liệt kê những tế vật mà hiền giả đuợc dâng cúng và phải thụ dụng (mà 
người viết bài này chỉ dám trích dẫn một ít, để khỏi xúc phạm quá mức 
đến sự nhạy cảm của con người văn minh: phân, nước tiểu, nước bọt, nước 
rửa chén, đồ nôn mửa… Những kẻ “biến phân và nước tiểu thành vật thực, 
sẽ đạt đuợc cực lạc”, kinh Guhyasamaja Tantra hứa hẹn. Ta tạm 
dừng lại ở sự trùng hợp về chất liệu sống đuợc hai thế hệ, hai nhân cách
 khác biệt nhau sử dụng để tạo ra hai ý nghĩa khác biệt; những ý nghĩa 
này sẽ trở lại với chúng ta một cách tự nhiên hơn là sự phân tích, thông
 diễn (hermeneutic) theo cái hiểu cá nhân hạn hẹp, và dĩ nhiên, có phần 
khiên cưỡng của người viết bài.[1]
Có
 lẽ sau hơn mấy trăm năm giáo dục Nho gia, và một thế kỷ của cái mà 
Foucault gọi là “bio-politics” nhập cảng từ phương Tây, ở một đất nước 
xa lạ với Ấn Độ, chúng ta mới bắt đầu manh nha nhìn nhận một khía cạnh 
bị ức chế (kể cả trong một chủ đề bị ức chế là tình dục!) - đó là những 
hình ảnh xấu xí và “ô uế” gắn liền với sinh lý của tình dục. Và trong 
một khuôn khổ thi ca, hay bất cứ loại hình văn hoá nào có tính cách tư 
tưởng, trí thức, những nội dung ấy đều nhận được sự đánh giá rất ư khuôn
 khổ, “giai cấp” rằng nó tối nghĩa và hỗn độn. Với thái độ cấp tiến, 
chúng ta có thể khuyến khích những phát biểu mới lạ, hy vọng trong đó có
 một vài viên ngọc sẽ được đãi ra bởi ai đó, (nhất là trong thời kỳ hậu 
hiện đại này, khi mà mọi sự tối nghĩa, bí hiểm được hứa hẹn là đều có 
một ý nghĩa sâu xa cần phải giải mã), nhưng người đó chắc hẳn sẽ không 
phải là chúng ta. Xa hơn nữa, chúng ta có thể ưa thích những ngôn từ 
“cứt, cặc, vân vân” như một sự nổi loạn, một thách thức những ngột ngạt 
của xã hội, nhưng ngay từ chính sự ưa thích đó đã nói lên rằng, người 
làm thơ, viết văn hay nghị luận kiểu ấy sẽ không dễ gì được coi là bình 
đẳng và là đồng nghiệp với những nhà thơ lãng mạn, vẫn trung thành với 
mắt huyền, với mây mùa thu, hoa buổi sớm. Hai loại người viết có hai địa
 vị xã hội khác nhau; và hai loại ngôn từ cũng theo đó mà không thể đứng
 chung trong một sự xếp loại. Gạt bỏ đi những yếu tố thời thượng, thơ 
vẫn là thơ phản kháng đối mặt với thơ chính thống, và sẽ khó có ai nhắc 
đến Nguyễn Đình Chính hay Bùi Chát, Lý Đợi cùng với Xuân Diệu trong một 
đoạn văn, nếu không có dụng ý bài bác nào.
Là
 những người thừa kế những nền văn hoá phát triển cao về truyền thống 
hành chính, văn hoá Trung Quốc và Âu châu, chúng ta đã quá quen sống với
 những hình thức kiểm duyệt và lệ thuộc vào sự phán xét của những tiền 
lệ nó đã tạo ra trong quá khứ [2].
 Đối với lãnh vực tình dục, sự kiểm duyệt đã đóng khuôn nó, và những sự 
phát biểu về nó, trong cái scientia sexualis của Foucault, nghĩa là 
trong một ý thức hệ thăng hoa, cao cả và lành mạnh đối với sự thăng bằng
 xã hội. Trong hệ thống ấy, sự diễn đạt những đối tượng “ô uế”, như 
Freud giải thích, là một sự ngưng cố (fixation) vào những ẩn ức tuổi 
thơ, mà con người không lớn vượt lên khỏi đó đuợc, một khiếm khuyết hay 
bệnh lý tồn tại cơ hữu trong con người (dù là trong mọi con người!). Đối
 lập với nó là cái mà Foucault gọi là ars erotica, của những nền văn hoá
 như Ấn Độ, tìm đến sự chuyển đổi ý thức cố hữu cho con người, sự giải 
trừ tri kiến, tìm về cội nguồn những quy luật lớn lao hơn của sự sống. 
Đối với họ, mọi hình tướng đều là hư ảo, và mọi pháp đều bình đẳng; mỗi 
hiện tượng đều chứa đựng cái toàn thể và không có gì tồn tại ở bên ngoài
 bất cứ hiện tuợng nào. Tinh thần trực quan, chỉ chứng, Tat tvam asi 
(Ngươi là y như thế) của họ đuợc đại chúng hoá qua cách diễn đạt nổi 
tiếng của Thiền học: “Phật (hay vô vị chân nhân, Tạ Tốn, tùy theo ngữ 
cảnh) hay cục phân bò cũng thế, chẳng khác gì nhau”.
Đối
 với tôi, thơ của chúng ta ngày nay vẫn chưa đi đến chỗ đó, dù rằng 
tương lai của nó đi về đâu vẫn chỉ là sự phỏng đoán của mọi người. Khi 
Nguyễn Đình Chính viết “phóng đạn tinh trùng, săn lùng tổ quốc”, ông đã 
nghĩ đến “tổ quốc” trước rồi mới nghĩ đến “tinh trùng”, sự khác biệt 
giữa chủ đề và tu từ. Có lẽ đó chính là lý do làm nhiều người ghét thơ 
ông và nhiều người ủng hộ, vì thái độ chính trị, vì quan điểm văn nghệ. Ở
 đây, sự “dơ bẩn” và sự “vô nghĩa” lại hơi có chiều hướng trái ngược 
nhau; một diễn ngôn chính trị-xã hội quá rõ ràng chính là cái làm cho 
thơ Nguyễn Đình Chính “dơ bẩn” và xúc phạm với nhiều người. Cũng vậy, 
“cứt” chẳng qua chỉ là một phương tiện cho ông diễn đạt sự thất vọng với
 “thơ” hay nghiệp thơ. Ý nghĩa ở đây chẳng có gì mới lạ hay lập dị; 
chúng ta nhận ra nó ngay, và chúng ta căm ghét hay ủng hộ nó vì thế. Có 
thể nói, chúng ta đã bắt đầu he hé mở cánh cửa đã bị đóng chặt sau lưng 
những người Ấn Độ kia, và đã ghé mắt nhìn vào, lợi dụng chút ánh sáng từ
 bên ngoài, nhưng không biết đến bao giờ chúng ta mới dám bước hẳn vào 
trong ấy và phát hiện ra cái nửa còn lại của thế giới biến mất từ lâu 
dưới cái nhìn của chúng ta, bị nhấn chìm trong vùng đen vô thức và chỉ 
trong các giấc mơ về đêm mới hiện được ra dưới những hình ảnh biến dạng,
 huyễn tưởng mơ hồ.
Thử nhìn thêm vào một vài ví dụ khác, mà tôi đã vội vàng thu thập đuợc khi chuẩn bị bài này:
Những
 lời văn gây sốc vang lên như những cái đập đầu vô vọng vào bức tường 
kiêng kị trong tính dục; âm điệu và ngôn ngữ của một nhân cách thơ trong
 cơn điên loạn, cọ xát lý trí để tìm cảm giác tối đa:
hay
 tôi đưa em ra thị nghè đêm ba mươi. để em dạng cẳng làm thi sĩ. để là 
chính mình trong các câu thơ tứ tuyệt. để em chảy máu sau mỗi một bài 
thơ.
(“Tôi còn nứng, tôi cứ chơi” – Lynh Bacardi)
Tiếng rên rỉ dòng nước trắng ứ bầu vú.
Em vật vã cánh cửa mình chưa kịp khép kìa…
(“Chở thuê” – Lynh Bacardi)
Hay dòng “chửi” từ đó tuôn ra những âm thanh chen lấn, ồ ạt đến nghẹn cổ trong cơn tức giận lồng lộn:
Và ngày mai lại biểu tình nứng (…) cùng một bìu.
(“Cặc đương thời” - Nguyễn Quốc Chánh)
Thơ
 của Nguyễn Đình Chính, của Lynh Bacardi, của Nguyễn Quốc Chánh đã thực 
hiện được tác động công phá ít nhiều vào bức tường thành ngôn ngữ và ý 
thức của con người Việt Nam, bên cạnh những công phá vào thượng tầng 
chính trị và luân lý/ xã hội. Chúng ta, trong những giây phút công bình 
và khai phóng nhất của mình, nhớ đến họ, và dành cho họ sự tôn trọng có 
thể như đối với những con người bức xúc đến mức phẫn uất truớc cái ngột 
ngạt đè nén có thể mang hay không mang một khuôn mặt. Rồi sau họ một 
ngày nào đó sẽ có những thử nghiệm mới, những thách thức mới nhằm thẳng 
vào ý thức văn minh của chúng ta, buộc chúng ta phải nhìn nhận những đối
 tượng “tục tĩu”, không phải chỉ là ẩn dụ, mà là những thực tế sống 
động, bị che dấu, sợ hãi lâu nay. Để làm gì, một sự chuyển biến mà gần 
như không có gì khác hơn là “nói tục” vô tội vạ trong thơ, một sự nói 
tục mà thế hệ Nguyễn Đình Chính có khi không hình dung nổi vì nó chẳng 
nhằm “đập phá” cái gì cả? Hẳn là nó sẽ đưa đến gần hơn với lý tưởng của 
thơ ca, là một ngôn ngữ trong vắt của một thế giới không ai đến đuợc, 
một ngôn ngữ mà sau khi mọi xung động đã trầm lắng xuống, vẫn giữ được 
âm điệu an nhiên tự tại và bao dung.
Có lẽ còn lâu lắm chúng ta mới vòng trở lại được đến chỗ cái hồn nhiên quái quỷ của Nguyễn Đức Sơn:
Anh đứng đó cởi quần cho em đái,
Đái đi em, đái nữa đi em.
Ôi, em chưa đái mà lòng anh đã ướt.
(Người viết chép từ trí nhớ, không nhớ tên bài thơ cũng như không chắc lắm về ngôn từ chính xác).
Dĩ
 nhiên, Nguyễn Đức Sơn cũng muốn tạo ra một phát biểu đối kháng (dù là 
nhẹ nhàng) với những quy ước xã hội. Dĩ nhiên, đó cũng không phải là một
 cảnh tượng trực quan, một phát ngôn chỉ chứng. Nhưng người ta tuởng 
tuợng rằng cái cảnh ấy rất thật trong đầu óc ông chứ không phải một ẩn 
dụ, rằng nếu tìm được một “em” nào cho phép, ông sẽ làm thế thật, và 
rằng có lẽ trên một cõi địa đàng nào đó, có lẽ có những cặp tình nhân 
đang thản nhiên làm điều ấy trước con mắt rình trộm của nhà thơ. Những 
sự “ô uế” tồn tại trong trạng thái rất tự nhiên, không mang theo một giá
 trị luân lý nào, một phản xạ có điều kiện nào được ghi sẵn vào não 
trạng. Ở đây người ta cuời, rất ngô nghê nhưng cũng rất thoải mái, như 
trong những khung cảnh sung suớng và yêu đương thời nguyên thủy. Nó gợi 
nhớ lại cái trâng tráo trinh bạch, cái tự nhiên tính trong ca dao cổ:
Hôm qua lên núi hái chè,
Gặp thằng phải gió….
Lịch sử kể rằng, tại các thành phố Rome và Pompeii
 cổ, người ta dựng bên đường những tuợng dương vật thẳng đứng, dưới có 
khắc dòng chữ: HIC HABITAS FELICITAS (hạnh phúc cư trú ở đây). Có một 
khuynh hướng vẫn đi theo loài người từ những nền văn minh cổ xưa đến bây
 giờ, đó là sự hoài niệm trạng thái nguyên sơ, niềm hạnh phúc viên mãn 
giữa cái Đại tự nhiên không nảy sinh một ý niệm phân biệt. Không ai biết
 được trên thực tế, những trạng thái ấy có nhất thiết đối lập với sự 
nhạy cảm văn minh của chúng ta, quan niệm lành mạnh xã hội của chúng ta;
 vì vậy, không một sự lãng mạn nào kêu gọi sự hủy bỏ những nguyên tắc, 
mực thước trong ngôn ngữ xã hội hoá, quy ước hoá. Nhưng thơ ít nhiều là 
kẻ kế thừa của những chủ nghĩa bí nhiệm; nó luôn hoài nghi mọi sự áp đặt
 và mọi hình tướng, và dù đang ở trên chặng đường nào, thì đích cuối 
cùng của nó cũng hướng về sự thanh thản và phóng nhiệm của con nguời. 
Xét nghĩ không nhà thơ nào cho rằng cứu cánh của mình là làm “dơ bẩn” 
ngôn ngữ như nhiều người đã phê phán; có thể nói, trên con đường mà ngày
 xưa các đạo sỹ Ấn Độ cổ đã đi để đến nơi gặp gỡ một ý thức mới, các nhà
 thơ của chúng ta ngày nay có vẻ như đang đập phá và công kích một cách 
quá khích, chính là vì từ bấy đến nay, lịch sử đã dựng nên vô số những 
chướng ngại dọc đuờng. Tôi tin là cần phải cho họ thời gian, và như trên
 đã nói, khi những mâu thuẫn đã lắng dịu trong tâm hồn, thì thơ đã trở 
nên trong suốt hơn và sẽ phản ánh rất chân thật sự bình an và khát khao 
cuộc sống mà nhà thơ và những người đọc kiên nhẫn vừa mới tìm thấy 
đuợc.   
Houston, 28/5/2008
________
[1]
 Người đọc có thể dễ dàng tìm thấy khắp nơi những ví dụ trong sự tế tự 
của Ấn Độ cổ xưa, và một hoá thân của nó là Mật tông Tây tạng, về việc 
sử dụng những biểu tượng từ kém thanh khiết đến dơ bẩn, cả trong nghi lễ
 lẫn trong nhân thân của các vị thần, được coi như những ẩn dụ về vũ trụ
 và về con người đúng nghĩa. Chẳng hạn như sự tôn thờ nhóm nữ thần đuợc 
gọi chung là mười vị Mahavidyas, hình dáng xấu xí, hung dữ, và có những 
hành vi gắn liền với sự dơ bẩn, thấp kém, vô luân theo quan niệm văn 
minh. (Kinsley, David. The Ten Mahavidyas, Berkeley, 1997)
Trong
 Phật giáo Tây Tạng, Ngũ trí Như lai cũng được liên hệ với năm thứ “vật 
thực” ô uế: Bảo Sanh Phật với máu, Vô Luợng Quang Phật với tinh dịch, 
Bất Không Thành Tựu Phật với thịt người, Bất Động Phật với nước tiểu, 
Đại Nhật Phật với phân. (Wayman, Alex, The Buddhist Tantras: Light on Indo-Tibetan Esotericism, New York 1973)
[2]
 Tuy nhiên, cũng nền văn hoá ấy đã hun đúc một phong thái phản kháng 
luôn tiềm ẩn trong cung cách kẻ sỹ, và biểu lộ qua nhiều tài năng sáng 
chói nhất của nó – phong thái ngông ngạo, phá cách xen lẫn chua chát, 
tuyệt vọng. Chẳng hạn như phong thái của Nguyễn Hữu Huân trong bài thơ 
vĩnh biệt: “Phản thần, đ.m. đứa cười ông”. Văn học hiện đại của chúng ta có lẽ là một mảnh đất rất tốt cho hạt giống ấy từ những mùa trái quá khứ nảy mầm.

No comments:
Post a Comment