Sunday, September 8, 2013

Lê Đạt - Người thiểu số

Lê Đạt


Phạm Tường Vân
 Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu từ giữa năm 2002 cho đến tháng 1/2003, trên căn gác bé nhỏ chứa đầy tạp phẩm số 9 Lãn Ông, trong những lần tôi có dịp ra Hà Nội thăm ông, “lợi dụng” tư cách một học trò nhỏ để rón rén gợi lại một ký ức nặng nề. Có thể nói đó là lần đầu tiên ông vượt qua những trở ngại tâm lý để có một cái nhìn toàn diện về quá khứ. Một câu chuyện dài hoàn toàn thiếu vắng tiếng cười bất hủ thường ngày của Lê Đạt, nhiều lần bị ngắt quãng khiến cho tôi không dám đào sâu …
…Tiếc rằng sau đó, vì nhiều lý do khác nhau mà chúng tôi phải tạm ngưng việc công bố để đợi một dịp thích hợp. Nhưng giờ đây, tôi muốn chia sẻ cuộc trò chuyện này với mọi người như ý nguyện của ông lúc sinh thời, và chỉ công bố những thông tin đã được ông chấp thuận.
Tuy nhiên, cũng xin độc giả thứ lỗi vì một đoạn ngắn đã được trích dẫn sử dụng cho phần tiểu sử của ông tại Hội thơ Văn Miếu Quốc Tử Giám Xuân 2007 và một số thông tin đã không còn tươi mới như mong muốn.

Sau đây là thư riêng của nhà thơ Lê Đạt cho ý kiến về bài phỏng vấn này:
Hà Nội 16/3/2003
Vân,
Bác đã xem và chữa lại. Cháu không cần chữa nữa. Kể cả phần câu hỏi của cháu.
Những từ nghệ sĩ chiến sĩ kêu to quá và không có lợi. Chúng dễ khiến người ta hiểu lầm và sinh sự không cần thiết. Hơn nữa nó không hợp với không khí của bài viết.
Cháu lưu ý cho bác.
Có gì hay viết thư cho bác.
Chúc hai mẹ con khoẻ vui và hạnh phúc
Thân,
P/S : Nhận được thư, điện ngay ra cho bác
Đây là phần Intro của tôi đã bị BBC cắt bớt.
“Người thiểu số”, “mồ côi tuổi trẻ”, “kẻ khổ sai tự nguyện”, “kẻ lưu đày nội xứ”, “người lạc quan ngoan cố”, “kẻ phi thân phận” …v.v ngày càng nhiều biệt danh ông tự đặt cho mình, để rồi “hóa giải” bằng một tiếng cười đầy sảng khoái. Nhưng nối các mắt xích đó, ta sẽ nhìn thấy một bức họa lập thể – một bức chân dung kém vui về ông và các bạn của ông.
Bóng buồm khuất cõi xanh biển nhớ
Nẻo trần vàng vỡ mộng chồn chân…(thơ Lê Đạt)
Thật ra, ông là ai?
Phần còn lại trên BBC:
Hồi tháng Giêng 2003, nhà báo Phạm Tường Vân, hiện sống tại Sài Gòn, có cuộc phỏng vấn với nhà thơ Lê Đạt (1929-2008) nhưng toàn bài nói chuyện chưa được đăng tải trên các báo Việt Nam.
Nay BBC Tiếng Việt xin giới thiệu bài với sự đồng ý của người phỏng vấn. Trước câu hỏi của nhà báo “Thật ra, ông là ai?
Lê Đạt: Thú thật với chị tôi cũng chưa xác định được tôi là ai. Con người vừa là “một” vừa là “nhiều”. Chỉ khi đậy nắp quan tài đi sang thế giới bên kia người ta mới biết đích thực mình là ai. Việc xách định ấy bao giờ cũng quá muộn vì chẳng ai có thể trở về từ thế giới bên kia để trả lời những người sống mình đích thực là ai. Tôi đành giới thiệu với chị một chân dung phần nào chính thức về Lê Đạt: Chị đừng nghĩ tôi nói đùa. Có một nhà thơ lớn người Bồ Đào Nha tên là Fernando Pessoa, ông viết dưới nhiều bút danh, mỗi bút danh có một tiểu sử một phong cách khác nhau. Ông tâm sự “tôi tự cảm thấy gần những người mình đã tạo ra hơn là gần chính bản thân mình.”
Nửa thám tử tự chung thân theo rõi
Nửa xổng tù thơ đổi chứng minh thư
…Theo khai sinh, thì tôi sinh năm 1929, tức tuổi Rắn. Nhưng bà cô ruột nuôi tôi từ bé lại khẳng định tôi sinh năm 1928, tức là tuổi Rồng. Để vừa lòng chính quyền cũng như vừa lòng người đã nuôi mình, tôi xin phép nhận mình là tuổi Rồng-Rắn.
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh…
Không biết có phải do vậy mà tôi thích làm thơ từ rất sớm chăng?
Cho anh tìm
những vùng quên tuổi dại
Thuở trăng sim soi lại bãi ú tim khờ
Phạm Tường Vân:Thời “tuổi dại” của ông như thế nào, trước khi nó vĩnh viễn bị tước đoạt?
Lê Đạt: Giá ai tịch thu tuổi dại cho tôi thì hay biết mấy, vì chị biết không, mặc dầu năm nay đã ngoài 70 tuổi, tôi vẫn thấy mình chưa chấm dứt được tuổi dại.
Ngoan cố thất tình tim vẫn mải
Khờ biết bao giờ hết dại yêu
Phạm Tường Vân:Ba mươi năm “lưu đày nội xứ” , quá dài trong cuộc đời một con người. Giả sử điều đó không xảy ra, bây giờ ông là ai?
Lê Đạt: Đúng, 30 năm không là gì với lịch sử nhưng là quá dài với đời sống mỗi con người. Khi tôi và anh Trần Dần cùng các bạn khởi xướng tập Giai Phẩm Mùa Xuân, châm ngòi cho phong trào Nhân Văn Giai Phẩm sau này, tôi mới 25 ngót nghét 27 tuổi. Có thể nói là tuổi trẻ của tôi bị ngắt ngọn quá sớm, tôi đã mồ côi tuổi trẻ.
Giả sử điều đó không xảy ra, bây giờ tôi là ai ư? Tôi không phải thầy tướng số để có thể trả lời chị. Chắc chắn tôi vẫn là Lê Đạt, nhưng là Lê Đạt một cách khác.
Phạm Tường Vân: Trong khi hoàn toàn không có khả năng thay đổi tình thế, ông đã làm gì để cho nó ngắn lại?
Lê Đạt: 30 năm ấy thật là dài, nhưng không phải không có lợi đối với tôi. Tôi đã “chạy” được một tấm thẻ đọc ở Thư viện Uỷ ban Khoa học Xã hội. Vừa may lúc đó, các đoàn thể Việt Kiều tại Pháp gửi về rất nhiều sách mới. Và ngoài thời gian đi lao động, ngoài thời gian dịch sách –kiếm tiền, tôi đã đọc sách từ 8 đến 10 giờ một ngày. Nhiều khi tối về phải ăn cơm nguội, con gái cả của tôi đã nói nửa đùa nửa thật: “Bố mê cô nào mà đi miết thế?” Những năm đó là những năm hạnh phúc nhất đời tôi – Đó là những năm du học tuyệt vời mà không cần chạy chọt Ban Tổ chức.
Phạm Tường Vân: Ông nổi tiếng là người lạc quan. Nhưng hình như sự “lạc quan ngoan cố” mà ông luôn tỏ ra ấy không cứu nổi những giây phút cực kỳ cô đơn và tuyệt vọng. Ông từng có ý định tự tử?
Lê Đạt: Tôi đã hơn một lần có ý định tự tử, nhưng gay gắt nhất không phải là vào thời kỳ bị kỷ luật – thời kỳ đó tôi còn mải đọc, mải viết, mải lo nghĩ đến vợ con và nhất là nghĩ đến việc phải làm được một cái gì đó để chứng tỏ cho những người hành hạ khinh bỉ tôi lúc bấy giờ biết rằng tôi không phải một “tên phản động vứt đi” như họ tưởng. Sau chuyến đi Pháp thứ hai năm 1999 về nước, tôi bỗng bị bệnh tật triền miên. Tôi có mấy câu thơ tự hoạ được nhiều người yêu thích:
Tuổi lú lẫn, ngược nhầm ga trẻ dại
Hay ngây ngơ không biết lối về già
Tha thẩn chữ ngã ba…
Lúc này tôi có cảm giác như thượng đế đã phát hiện ra tôi đi nhầm tầu, bắt buộc tôi phải lấy vé về già. Hàng tuần liền thức trắng – lại thêm bệnh viêm đại tràng, động ăn chút gì khác lạ là bị tào tháo hành hạ…
Tôi có thói quen ngày nào cũng đi bộ mấy vòng Bờ Hồ và viết mấy câu thơ để tập luyện. Trong những ngày chán nản ấy, tôi cũng vứt bỏ luôn thói quen hàng 40, 50 năm này. Tôi đã tìm hết cách chạy chữa cả Đông y lẫn Tây y nhưng đều vô hiệu. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình bắt đầu vô dụng, mình đã bắt đầu làm phiền mọi người. Tôi hay nghĩ đến cái chết của Hemingway:
“Người ta có thể chết nhưng không thể bị thua”
Tôi đã viết sẵn một lá thư vĩnh biệt:
“Như mọi người đã biết trong mấy năm nay, tôi hết sức chống đỡ bệnh tật nhưng không có kết quả. Cái gì người ta khen tôi người ta cũng đã khen rồi, cái gì người ta sỉ vả tôi, người ta cũng đã sỉ vả rồi. Tôi chủ động đi trước cái chết bệnh tật một bước. Tôi không oán thán ai cả, chỉ e mỗi một điều làm phiền lòng những người thân, bạn hữu và những độc giả yêu mến tôi…”
Phạm Tường Vân: Nghĩa là ông đã mấp mé cái chết. Điều gì đã ngăn cản ông không ra đi?
Lê Đạt: Vợ tôi, không phải vì những lời khuyên can hay khóc lóc của Thúy (tên vợ tôi), vì Thúy có biết gì về dự định ấy của tôi đâu. Để các bạn hiểu rõ thêm, tôi xin phép được nói đôi điều về vợ tôi. Gia đình Thuý là một gia đình nông dân nghèo, mẹ, bị chồng bỏ theo vợ lẽ, phải lần mò lên tận Thái Nguyên (thuở đó Thái Nguyên là xa lắm) cùng với đàn con nhỏ khai hoang kiếm sống. Vợ tôi phải ăn mày cửa Phật một thời gian khá dài.
Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thuý một người làm bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thuý đương được ở Đoàn Kịch Trung Ương, lúc nào cũng nơm nớp bị đưa về xã để đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu – cả nhà may mắn thoát nạn, và Thuý trở thành nữ diễn viên trẻ xuất sắc nhất của Đoàn kịch nói Trung Ương.
Xem Thuý diễn “Chiến thắng Nghĩa Lộ” và “Hàng ngũ Hoà Bình” Nguyễn Huy Tưởng đã bốc đồng nói với tôi: “Cô Thuý đúng là một tài năng!”. Vừa hết hạn của mẹ và anh, thì Thuý lại lâm vào hạn của chồng. Khi ấy, Thuý mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ “bộ mặt phản động của Lê Đạt” và khuyên cô cắt đứt với tôi.
Người ta luôn lục balô của cô để xem có chứa chấp tài liệu phản động gì không… Các anh của Thuý cũng khuyên cô nên cắt đứt… Chỉ có bà mẹ là không nói gì, thỉnh thoảng bà chỉ nói nhỏ nhẻ một câu: “Con người không nên ăn ở thất đức”. Bà cũng chỉ dám nói khẽ vậy thôi. Người ta đã vẽ ra trước mắt Thuý một tương lai tươi sáng như thế nào nếu Thuý cắt đứt với tôi và ngày nào cô cũng “được kiểm thảo” để phân rõ đúng sai. Nhưng Thuý nhất định không chịu chỉ vì một lý do: “Tôi thấy anh Lê Đạt không giống những lời các anh nói”. Và lập tức cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ.
Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi có lẽ đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cả cuộc đời nghệ thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ.
Khi tôi được phục hồi danh dự, chị Song Kim có nói với Thuý: “Em làm giấy khai thành tích đi, chị sẽ chứng nhận để em được công nhận là nghệ sỹ ưu tú, không có thiệt quá”. Thuý cảm ơn chị Song Kim nhưng nhất định không làm: “Mình đã mất cả một cuộc đời, danh mác mà làm gì”.
Suốt đời đối với vợ tôi mang nặng một mặc cảm tội lỗi. Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thuý thì được cái gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé được miệng. Nhưng Thuý vẫn vui vẻ và nhất là chăm chỉ luyện tập thể dục. Nhiều đêm mất ngủ tôi thấy Thuý tập “Suối nguồn tươi trẻ” và ngồi thiền cho đến khi rất khuya, rồi sáng lại dậy sớm kiên trì tập không hé răng phàn nàn một câu vì sợ làm phiền tôi và các con.
Chính nghị lực ấy, chính bài học không lời ấy đã trụ tôi lại với cuộc sống. Tôi thấy mình lẳng lặng bỏ đi như thế là không phải đối với vợ. Và tôi bỗng nhớ đến đoạn kết một truyện ngắn “Lá thư tuyệt mệnh” tôi viết năm 1994:
“Phàm mọi việc trên đời nhất thiết không nên vội, đặc biệt khi làm chữ và khi sắp tự tử.”
Phạm Tường Vân: Khi 20 tuổi, ông tâm niệm điều gì?
Lê Đạt: Khi 20 tuổi, tôi đã khát khao cách tân thơ Việt. Đến tuổi ba mươi, bốn mươi vẫn thế.
Phạm Tường Vân: Và bây giờ, khi đã ở tuổi U80?
Lê Đạt: Sức khoẻ tôi đã giảm sút nhiều, bệnh tật triền miên, nhưng tôi vẫn “lạc quan ngoan cố” vẫn ngày ngày đi bộ quanh Bờ Hồ và cố gắng khoẻ để tiếp tục làm thơ như tôi đã từng làm một nửa thế kỷ qua.
Phạm Tường Vân: Gia nhập sớm nhưng có vẻ như thơ ông được biết tới khá muộn, cách những người như Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán một khoảng khá xa về thời gian lẫn không gian. Trong thâm tâm, ông nhìn nhận đóng góp của họ cũng như của ông ra sao đối với giai đoạn lịch sử này ? Với nền văn học nói chung và nhóm Nhân Văn nói riêng? Vị trí, vai trò, sứ mệnh mà ông tự nhận thức đối với thế hệ của mình? Đối với nền thơ Việt?
Lê Đạt: Năm 1951 tôi tham gia chiến dịch giải phóng Lào Cai và gặp Trần Dần tại đó. Hai anh em bàn rất nhiều về thơ thế giới và trong nước. Lúc ấy chúng tôi đều rất thích nhà thơ Nga Mayakovski và những bài thơ cách mạng của ông. Ngoài rất nhiều ý kiến tản mạn có một ý kiến quan trọng về thơ Tố Hữu – cả hai chúng tôi đều nhất trí cho rằng anh Tố Hữu là một nhà thơ của cách mạng chứ không phải một nhà cách mạng thơ vì bút pháp của anh căn bản là bút pháp của thơ Mới năm 1930.
Hoà bình lập lại, tôi không ngờ rằng ý kiến đó đã khởi xướng lên một cuộc phê bình thơ tập Việt Bắc. Cùng với việc phê bình thơ Việt Bắc, Trần Dần và tôi rủ Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác ra một tập thơ trên cơ sở tự do sáng tác. Bài của ai người đó chịu trách nhiệm với chủ đề chống công thức quan liêu và một phong cách khác thơ tiền chiến. Chính trong các cuộc trao đổi này hẳn anh Trần Dần đã đề ra khẩu hiệu làm mất lòng rất nhiều nhà thơ lớp trước “Hãy chôn thơ tiền chiến” và ít lâu sau tập Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời.
Lúc này Phùng Quán chưa tham gia nhưng Quán đã là một nhà văn trẻ hết sức nổi tiếng với cụm cuốn tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”. Bản thân tôi cũng chưa biết mặt Phùng Quán. Một hôm đương làm việc tại toà soạn báo Văn Nghệ – số 2 Hai Bà Trưng, tôi thấy một anh bộ đội cấp Trung sĩ đến tìm và tự giới thiệu “Em là Phùng Quán”. Vui chuyện tôi hỏi Phùng Quán: “Bọn mình định ra một tập thơ, cậu có muốn tham dự không?” Quán rất thú vị và đưa cho tôi bài “Chị quét rác”. Tôi quen và thân với Phùng Quán từ đó. Nhưng khi đưa việc Phùng Quán tham gia, có mấy anh không bằng lòng. Một anh nói “Phùng Quán nó là đàn em không ngồi cùng chiếu với anh em mình được”. Tôi nói đùa (tôi vốn có tật hay nói đùa): “Đây là việc làm thơ chứ có phải việc làng đâu mà chia ra chiếu trên, tiên chỉ với thứ chỉ”. Lời nói đùa ấy đã làm phiền đến một người bạn, nó trở thành biệt hiệu của anh.
Tưởng làm chung với nhau một tập thơ cho vui, ai ngờ hậu quả của nó lại nặng nề đến thế. Tập thơ ra đời được ít ngày đi đâu cũng thấy người ta xì xào hai câu thơ:
“Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” của anh Trần Dần và mấy câu “Những kiếp người sống lâu trăm tuổi/Ỳ như một dãy bình vôi/ Càng sống càng tồi/Càng sống càng bé lại” của tôi.
Trần Dần, Tử Phác đương đi tham gia cải cách ruộng đất thì bị Cục Quân Pháp bắt, tôi bị “giữ” ở Ban Tuyên Huấn Trung ương 15 ngày để kiểm thảo và cuốn “Giai Phẩm Mùa Xuân” bị tịch thu.
Thú thật nhận được giấy triệu lên Ban Tuyên Huấn tôi vốn vẫn cho là một việc hiểu lầm. Khi tôi lên trụ sở Ban Tuyên Huấn Trung ương ở phố Lý Thường Kiệt thì anh Tố Hữu còn bận làm việc trên gác. Tôi thấy cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn với chi chít những dấu hỏi, những dấu chấm than và những lời nhận xét của chính Tố Hữu. Tôi rất thuộc nét chữ của anh vì chúng tôi đã làm việc bên anh nhiều năm.
Bên mấy câu thơ vô hại của tôi: “Bay cho cao! Bay cho xa!”. Tôi thấy nhận xét của anh ghi bằng bút bi đỏ: “Bay đi đâu? Hay là bay vào Nam với Mỹ Diệm”. Tôi giật mình biết rằng cái công việc “làm vui” của mấy anh em đã vô tình trở thành một vụ án chính trị nguy hiểm.
Phạm Tường Vân: Từ Giai Phẩm Mùa Xuân đến tờ báo Nhân Văn, từ chủ trương “chôn thơ Tiền chiến” đến đấu tranh đòi quyền dân chủ và tự do sáng tác, các ông đã đi một bước khá xa: từ nghệ sĩ lên chiến sĩ. Liệu nó có phải là con đẻ của một trào lưu dân chủ mà các ông du nhập qua sách báo? Xin ông cho biết thêm chi tiết về vụ án này
Lê Đạt: Về vụ án này, nhà văn Pháp George Boudarel đã phân tích rất nhiều trong cuốn “Trăm hoa nở trong màn đêm nước Việt”. Và anh có nhận xét rằng Giai Phẩm Mùa Xuân bị ảnh hưởng của phong trào “trăm hoa đua nở” bên Trung Quốc vì Trần Dần đã sang Trung Quốc và chịu ảnh hưởng của Hồ Phong.
Khi sang Paris năm 1997, tôi có gặp Boudarel và đã trình bày để anh rõ rằng Trần Dần và tôi đều bị ảnh hưởng nặng nền văn hoá Pháp, đặc biệt là Voltaire và Russeau, chúng tôi mít đặc tiếng Trung Quốc và có thể Trần Dần chỉ vô tình đã nghe thấy nhắc đến tên Hồ Phong tại một quán sủi cảo hay vịt quay nào đó. Hơn nữa, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất bản vào tháng Giêng năm 1956 mà phong trào “trăm hoa đua nở” ở Trung Quốc đến tháng 5 năm 1956 mới mở màn. Nghe nói lần tái bản Budarel có sửa lại.
Tháng 6 năm 1956 khi ở Trung Quốc bắt đầu phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” thì ít thời gian sau ở Việt Nam cũng bắt đầu có phong trào “mở rộng dân chủ” trong văn nghệ. Anh Tố Hữu tự kiểm điểm về công tác lãnh đạo văn nghệ và không khí trong giới Văn nghệ chưa bao giờ sôi nổi như vậy. Nổi bật lên trong phong trào đó là anh Nguyễn Hữu Đang, anh gần như là người phát ngôn của lớp học. Tôi xin giới thiệu mấy nét về anh Nguyễn Hữu Đang. Anh là cán bộ văn hoá lâu năm của Đảng, có một vai trò hàng đầu trong Phong trào truyền bá Quốc Ngữ do Đảng phát động trước Cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, do bất đồng ý kiến với một số cán bộ lãnh đạo, anh Đang bỏ công tác về ở Thanh Hoá và cũng thôi không sinh hoạt Đảng.
Sáng kiến ra một tờ báo là của Nguyễn Hữu Đang. Anh nói với Nguyễn Đình Thi đại ý “tao sẽ ra một tờ báo để bọn Giai Phẩm Mùa Xuân” làm.
Do hoạt động lâu năm ở Hà Nội trước cách mạng nên anh Đang quen biết rất nhiều trong giới in ấn. Lúc này Trần Dần, Tử Phác đã được thả và “Giai Phẩm Mùa Xuân” cũng đã được tái bản. Nhưng anh em chỉ mới nghĩ đến việc tiếp tục ra tập san chứ không nghĩ đến việc ra báo vì đa số chúng tôi đều là người sáng tác mà ra một tờ báo thì quá có rất nhiều việc phức tạp vượt quá sức mình.
Tuy thế chúng tôi ủng hộ việc Nguyễn Hữu Đang ra báo. Vì Trần Dần và tôi đều bận việc riêng nên anh em Giai Phẩm Mùa Xuân cử Hoàng Cầm tham gia với Nguyễn Hữu Đang.
Lúc đó tờ báo chưa có tên và không biết Đang hay Hoàng Cầm đã nghĩ ra tên Nhân Văn. Được ít ngày trước không khí hết sức sôi nổi của anh em với việc ra báo, Trần Dần nói với tôi: “Hoàng Cầm nó dễ bị lôi kéo, mày phải tham gia mới được”. Vì anh em vẫn đánh giá tôi là người có nhãn quan “chính trị” nhanh nhạy và “lập trường” tương đối vững, có thể “đối trọng” với Nguyễn Hữu Đang được.
Vậy là ban phụ trách của tờ Nhân Văn gồm Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm và tôi. Anh Hoàng Cầm phụ trách việc lấy sáng tác của anh em văn nghệ sĩ, còn Đang và tôi thì chịu trách nhiệm về đường hướng chung của tờ báo. Đang nói với tôi: “Hay là cậu làm chủ nhiệm”. Tôi trả lời “Mình là đảng viên sao có thể làm chủ nhiệm được, có lẽ ông nên đứng tên vì ông thôi sinh hoạt Đảng đã lâu rồi”. Nguyễn Hữu Đang lắc đầu “Mình cũng không làm được”… Và Đang bất ngờ (?) đưa ra sáng kiến đề cử cụ Phan Khôi. Đó là một sáng kiến cực hay và cũng hết sức đột ngột.
Tôi lại phải nói một vài lời về cụ Phan Khôi. Cụ Phan quen tôi từ kháng chiến chống Pháp và ở cùng cơ quan Văn nghệ với tôi đến ba bốn năm, nhưng hai bên ít có quan hệ, một là tôi thuộc lớp hậu sinh, hai là cụ Phan rất khó tính và ít muốn giao tiếp với người khác. Nhưng sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, cụ Phan rất thích bài “Bình vôi” của tôi nên quan hệ giữa hai người có “ấm” hơn.
Không biết Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm là người đến mời cụ, chỉ thấy Đang nói lại với tôi là: “Cụ Phan tỏ ra hết sức hào hứng”. Là một trong mấy người phụ trách chính của tờ báo, tôi thấy có trách nhiệm phải đến thông báo với cụ một cách sòng phẳng: “Tờ báo làm việc trong hoàn cảnh rất du kích nên chúng tôi không có điều kiện đưa cụ duyệt các bài với tư cách là chủ nhiệm đâu”. Cụ Phan trả lời ngay “Tôi đứng tên là để chịu trách nhiệm, còn mọi việc là do các ông làm”. Rồi cụ cười rất to.
Báo Nhân Văn đương in số 5 thì bị đình bản. Người trong nước, ngoài nước, rồi giới hữu trách đã có ý kiến rất nhiều về tính chất của tờ báo Nhân Văn. Tôi phải nói khẳng định với chị rằng: tất cả anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ muốn ra tờ Nhân Văn nhằm đấu tranh với những hiện tượng quan liêu và mất dân chủ trong sinh hoạt xã hội. Trần Dần và tôi (tôi nghĩ cả Nguyễn Hữu Đang nữa) quá rõ lực lượng của Đảng để làm một chuyện rồ dại là “chống lại” sức mạnh hùng hậu đó bằng một tờ báo. Hơn nữa trước sau chúng tôi vẫn là những người làm thơ, coi thơ là sự nghiệp chính của đời mình và không có tham vọng chính trị. Tôi rất tin ở tính khách quan của thời gian và sự công minh của lịch sử.
Chúng tôi chưa làm được gì nhiều cho văn học vì chúng tôi bị “hoạn nạn” quá sớm.
Phạm Tường Vân: Trong trường hợp này, ta có thể lý giải thế nào: bi kịch tạo nên nhân cách hay nhân cách tạo ra bi kịch? Sau những gì đã xảy ra, ông có nghĩ rằng, bi kịch đôi khi chính là nguồn dinh dưỡng hay một thứ vắc – xin của tâm hồn, mà mỗi nhà thơ (trẻ) để phòng ngừa chứng hoang tưởng hoặc ưa làm dáng, trước hết nên dọn một món cho mình?
Lê Đạt: Bi kịch không tạo ra nhân cách và nhân cách cũng không tạo ra bi kịch. Bi kịch đứng về mặt khách quan mà nói, ít nhiều đều có tính chất bất hạnh. Bi kịch có thể tôi luyện một tính cách nhưng cũng có thể huỷ diệt một tính cách. Tôi chưa bao giờ coi bi kịch là một chất dinh dưỡng cho tâm hồn. Bi kịch không phải là phép thể dục dưỡng sinh. Các nhà thơ trẻ để tránh khỏi nhạt nhẽo sáo mòn tuyệt đối không nên đến khách sạn 5 sao, cửa hàng đặc sản gọi cho mình một món bi kịch. Và càng không nên tự bịa ra một bi kịch để tập dượt.
Muốn tránh khỏi nhạt nhẽo và sáo mòn nhà thơ phải tha thiết với nghiệp thơ của mình, luôn nuôi dưỡng tình chữ bằng một lao động chữ cần mẫn, khổ luyện, và một quá trình học hỏi (nên học thêm một hai ngoại ngữ để có thể đọc được nguyên bản vì đọc thơ dịch là một việc vạn bất đắc dĩ). Mayakovski khuyên nhà thơ phải luôn sẵn sàng ở tư thế người làm thơ, nẩy được một ý hay, chụp được một hình ảnh đẹp, một tập hợp từ đắt phải ghi ngay vào sổ coi như một kho hậu cần dồi dào thường xuyên cho thơ.
Một trong những khuyết điểm của các nhà thơ trẻ là còn làm thơ chơi bời quá, chưa coi nó là một việc nghiêm túc nhất của đời mình. Các nhà thơ trẻ còn quá quen với cách làm thơ ngẫu hứng. Ai cũng biết cảm hứng là cần nhưng cảm hứng chỉ là khởi đầu, sau đó là mồ hôi và sự vật lộn với từng con chữ. Một nhà thơ đã nói đùa: “thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi.”
Lẽ dĩ nhiên không phải người nào cũng được như Đỗ Phủ “làm một câu thơ quỷ thần không khiếp kinh, chết không nhắm được mắt”. Trong các sách người ta thường nêu gương nhà văn hào Nga L.Tolstoy viết đi viết lại bốn lần bộ tiểu thuyết khổng lồ “Chiến tranh và hoà bình” và thường nhưng lại nêu gương Tào Thực đi bảy bước làm bảy câu thơ, làm như người làm thơ càng nhanh càng tài giỏi.
Nếu vậy thơ là một cuộc chạy đua tốc độ còn gì. Đó là hình ảnh sai lạc về người làm thơ. Tào Thực đã phải thức nhiều đêm trắng, đọc hàng bồ sách Thánh hiền, và luyện tập vã mồ hôi mới đạt được cái trình độ thượng thặng đó.
Và các bạn trẻ cũng chẳng phải đi tìm bi kịch ở đâu xa. Nó ở ngay trước mặt các bạn khi các bạn đã chọn nghiệp làm thơ.
Hai chục thế kỷ đã có bao nhà thơ có tài, tưởng họ đã tiêu thụ hết kho chữ, mình là kẻ sinh sau đến muộn lại nhặt chiếc găng thách đấu lên tay, kiên quyết tìm cho ra một góc nhìn mới lạ, một cách nói lạ, một ngôn ngữ của riêng mình, bản thân nó đã là một bi kịch hết sức to lớn.
Công cuộc cách tân thơ Việt và các nhà thơ tiếng Việt nhiều tham vọng cách tân hiện nay thì sao? Một nền thơ muốn sống phải luôn luôn thay đổi hay như người ta quen nói “luôn luôn phải cách tân”.
Cuộc cách tân trong thơ Việt Nam đương đại tiếp tục diễn ra ở thế hệ mới từ Nguyễn Quang Thiều đến các nhà thời thơ của thời mở cửa như Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh,… Họ chưa có những thành tựu đáng kể nhưng người ta có quyền tin vì tất cả đều thấy phải viết khác Thơ Mới năm 1930.
Ở các nhà thơ Việt Nam ngoài nước gần đây, tôi cũng thấy cùng xu hướng tìm tòi ấy. Cách tân một nền thơ là một công việc gian nan và lâu dài, không thể sốt ruột được. Tôi đã cố gắng làm tất cả những gì tôi có thể làm được với tư cách một nhà thơ yêu nước và yêu chữ. Tôi đã nhọc lòng với việc cách tân thơ Việt và sẽ tiếp tục cho đến khi nào sức mình còn có thể làm được. Còn kết quả nhiều hay ít thì xin để dành cho giới phê bình và độc giả mà bao giờ tôi cũng hết sức tin yêu và kính trọng.
Phạm Tường Vân: Những truyện ngắn của ông rặt tên Tây và viết những chuyện bên Tây, dù khi viết ông chưa sống ở đó ngày nào. Ông giải thích chuyện này thế nào? Một tình “yêu bóng” hay khát vọng đạt tới sự bình đẳng với văn minh Tây phương?
Lê Đạt: Trong thời buổi toàn cầu hoá và thông tin đại chúng, việc mời các nhà văn và các độc giả Việt Nam đi thực tế “nền văn hoá thế giới” một chuyến chẳng là một việc đáng làm sao? Tôi đã trả lời một bậc đàn anh trong làng văn xuôi Việt Nam: “một chuyến tham quan nền văn hoá thế giới ít nhất cũng thú vị như một chuyến tham quan Tây Bắc của ông”.
Phạm Tường Vân: Năm 97, ông được cấp phép “xuất ngoại” với tư cách là một nhà thơ Việt Nam nói tiếng Pháp trong liên hoan Pháp thoại đa sắc (Một điều tưởng chừng như không thể xảy ra!). Những cuộc tiếp xúc văn hóa với công chúng và các đồng nghiệp nơi ấy có tạo ra một ngã rẽ đáng kể trong tư tưởng của ông?
Lê Đạt: Năm 1997, tôi được cấp phép xuất ngoại. Cũng lắm gian nan lắm, nhưng chúng ta không có thời gian để kể lể ở đây. Khi tới Paris, một chị bạn người Pháp hỏi tôi: “Đây là lần đầu tiên ông đến Paris?”.
Tôi trả lời “Chị lầm, đây là lần đầu tiên tôi trở lại Pari” Chị bạn có vẻ ngạc nhiên hỏi: “Lần đầu tiên ông đến Paris vào năm nào”. Tôi trả lời: “Từ hồi tôi còn nhỏ qua những trang sách của Daudet, Anatole France, Victor Hugo…” Chị bạn nắm tay tôi cười hỏi: “Để ăn mừng cuộc hội ngộ này, ông có cho phép tôi được ôm hôn ông không?”
Chuyến đi Pháp để lại cho tôi nhiều ấn tượng đẹp đẽ và xúc động nhưng nó không tạo ra một ngã rẽ nào đáng kể trong tư tưởng tôi. Tôi đã nói tất cả những điều đó trong tập thơ “Tự tình Eiffel” mà Tạp Chí Thơ Việt hải ngoại có nhã ý xuất bản tại California như lời tỏ tình với nước nền văn hoá Pháp của một nhà thơ già Việt Nam.
Phạm Tường Vân: Nếu có thể, ông hãy điểm ra những dấu mốc quan trọng trong tư tưởng và thơ ca của mình?
Lê Đạt: Tôi không thể điểm một cách cụ thể những dấu mốc trong tư tưởng và thơ ca của mình vì trí nhớ của tôi về ngày tháng rất tồi. Tôi chỉ có thể nói đại thể quá trình diễn biến của nó. Tôi làm thơ từ rất sớm, lẽ dĩ nhiên là theo gương các bậc đàn anh của phong trào thơ Mới 1930. Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng của Mayakovski rất đậm.
Chán cảnh đi ở trọ, tôi đã cố tìm cho mình một tiếng nói. Bài “Cha tôi” và bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” đã cho tôi một vị trí nhất định trong làng thơ Việt Nam. Những bài này có một số hình ảnh mới mạnh bạo, nhưng vẫn còn hết sức dè dặt về mặt thi pháp.
Trong thời kỳ năm năm đọc sách tại Thư viện khoa học xã hội, tôi đã cố gắng theo dõi tất cả những trào lưu của thơ hiện đại thế giới, đặc biệt là thơ Pháp. Một là vì tôi am hiểu tiếng Pháp, hai là vì nền thơ ca Pháp vào những năm 50 chiếm vị trí đầu tầu trong nền thơ thế giới.
Trong cuộc đời, thỉnh thoảng người ta gặp được những câu định mệnh, nó thay đổi cả một lộ trình. Tôi làm quen với thơ Mallarmé từ đã lâu nhưng cùng một lúc với câu nói nổi tiếng của nhà phân tâm học Pháp Lacan “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” tôi phát hiện lại lời phát biểu của Mallarmé mà tôi đọc đã từ lâu nhưng không chú ý “Hãy trả lại tính chủ động cho chữ.”
Tôi bắt đầu đọc lại Freud, đọc lại Mallarmé và đọc lại Satres: Một câu nói của Satres về thơ cũng khiến tôi đặc biệt chú ý “Nhà thơ khước từ sử dụng ngôn ngữ”. Tôi phát hiện ra rằng phần lớn các nhà thơ Việt Nam trong đó có tôi, thường coi chữ như một dụng cụ thụ động để diễn đạt một nội dung có trước, nghĩa là đều làm việc chủ yếu từ cõi hữu thức. Cổ nhân từ lâu đã nói “ý tại ngôn ngoại” nhưng chỉ coi đó là một phương pháp tiết kiệm lời chứ chưa phải chủ trương thật sự “giải phóng chữ”, các cụ vẫn coi chữ như những phương tiện vận tải một nội dung “văn dĩ tải đạo”. Tôi đã tập luyện vất vả rất nhiều để trả lại tính chủ động cho chữ.
Việc tìm tòi của tôi những ngày đó hết sức thanh thản, tôi chẳng bận tâm gì đến việc có xuất bản hay không vì lúc đó tôi vẫn bị kỷ luật “treo bút” và tôi đinh ninh rằng án đó có thể kéo dài đến hết đời mình. Tôi chỉ nghĩ đến việc tạo ra một ngôn ngữ mới khác hẳn với ngôn ngữ thơ Việt Nam cho đến lúc đó. “Bóng chữ” ra đời trong những ngày miệt mài lao động này.
“Bóng chữ” đối với thơ tôi thật sự là một bước ngoặt. Tôi hết lòng cầu mong đó cũng là một bước nhúc nhích của thơ Việt.
Phạm Tường Vân: Ông đang đọc gì?
Lê Đạt: Thị lực của tôi ít lâu nay sút kém nhiều nên việc đọc sách rất khó khăn. Tôi đang đọc lại một số sách về đạo Thiền và đọc lại các nhà thơ thế giới mà tôi ưa thích.
Phạm Tường Vân: Cuộc sống hiện tại của ông?
Lê Đạt: Vẫn đi bộ quanh Bờ Hồ hàng ngày và làm thơ.
Phạm Tường Vân: Nếu có thể trở thành một sinh vật khác, ông muốn làm họ hàng với cây và con gì?
Lê Đạt: Tôi muốn làm họ hàng với cây mimôza. Tôi xin trích một đoạn trong bài tựa tập thơ “Mimơza” của tôi để chị hiểu rõ thêm việc lựa chọn ở trên.
“Cách đây hai mươi năm khi viết…
Nắng tạnh heo mày hoa lạnh
Mimôza chiều khép cánh mi môi xa
Tôi chưa biết loài hoa này đối với tôi là một định mệnh”
Sau khi chùm thơ được công bố chừng một tháng, một nữ độc giả giấu tên tại thành phố Sài Gòn gửi tôi một nhành mimoza ép với một lời cáo lỗi: “Em không ép được màu vàng rực nắng lẫn mùi hương hoang dại của hoa”…
Sau hai năm tôi lại có dịp tái ngộ Paris, vào lúc mùa Mimoza có thể sắp đi xa. Trên đường về Grenoble dự “Mùa xuân Việt Nam” điều lo lắng sâu xa, rồ dại nhất của tôi là lo lỡ hẹn thơm một loài hoa rừng. Đời một người chữ bận tâm chống chủ nghĩa lãng mạn có thể coi đây là một sự trả thù của hoa? Và hôm nay khi ngồi Paris/Hà Nội, tôi vẫn chưa cắt cơn mimôza…”
Bóng buồm khuất cõi xanh biển nhớ
Nẻo trần vàng vỡ mộng chồn chân…
Phạm Tường Vân: Nếu ở Việt Nam, mỗi công dân được sử dụng súng như bên Mỹ, ông sẽ nổ vào đâu?
Lê Đạt: Nếu ở Việt Nam mỗi công dân được sử dụng súng như bên Mỹ, tôi sẽ chẳng nổ vào đâu cả, tôi sẽ đem súng đổi lấy một cây bút công nghệ cao có thể viết sáng trong đêm tối những sao chữ. 
Thêm:

No comments: