![]()  | 
| Lê Đạt | 
Phạm Tường Vân
 Câu
  chuyện của chúng tôi bắt đầu từ giữa năm 2002 cho đến tháng 1/2003, 
trên  căn gác bé nhỏ chứa đầy tạp phẩm số 9 Lãn Ông, trong những lần tôi
 có  dịp ra Hà Nội thăm ông, “lợi dụng” tư cách một học trò nhỏ để rón 
rén  gợi lại một ký ức nặng nề. Có thể nói đó là lần đầu tiên ông vượt 
qua  những trở ngại tâm lý để có một cái nhìn toàn diện về quá khứ. Một 
câu  chuyện dài hoàn toàn thiếu vắng tiếng cười bất hủ thường ngày của 
Lê  Đạt, nhiều lần bị ngắt quãng khiến cho tôi không dám đào sâu …
…Tiếc rằng sau đó, vì nhiều lý do khác nhau
 mà chúng tôi phải tạm  ngưng việc công bố để đợi một dịp thích hợp. 
Nhưng giờ đây, tôi muốn  chia sẻ cuộc trò chuyện này với mọi người như ý
 nguyện của ông lúc sinh  thời, và chỉ công bố những thông tin đã được 
ông chấp thuận.
Tuy nhiên, cũng xin độc giả thứ lỗi vì một 
đoạn ngắn đã được  trích dẫn sử dụng cho phần tiểu sử của ông tại Hội 
thơ Văn Miếu Quốc Tử  Giám Xuân 2007 và một số thông tin đã không còn 
tươi mới như mong muốn.
Sau đây là thư riêng của nhà thơ Lê Đạt cho ý kiến về bài phỏng vấn này:
Hà Nội 16/3/2003
Vân,
Bác đã xem và chữa lại. Cháu không cần chữa nữa. Kể cả phần câu hỏi của cháu.
Những từ nghệ sĩ chiến sĩ kêu to quá và 
không có lợi. Chúng dễ  khiến người ta hiểu lầm và sinh sự không cần 
thiết. Hơn nữa nó không hợp  với không khí của bài viết.
Cháu lưu ý cho bác.
Có gì hay viết thư cho bác.
Chúc hai mẹ con khoẻ vui và hạnh phúc
Thân,
LĐ
P/S : Nhận được thư, điện ngay ra cho bác 
Đây là phần Intro của tôi đã bị BBC cắt bớt.
“Người thiểu số”, “mồ côi tuổi trẻ”, “kẻ khổ 
sai tự nguyện”, “kẻ lưu  đày nội xứ”, “người lạc quan ngoan cố”, “kẻ phi
 thân phận” …v.v ngày  càng nhiều biệt danh ông tự đặt cho mình, để rồi 
“hóa giải” bằng một  tiếng cười đầy sảng khoái. Nhưng nối các mắt xích 
đó, ta sẽ nhìn thấy  một bức họa lập thể – một bức chân dung kém vui về 
ông và các bạn của  ông.
Bóng buồm khuất cõi xanh biển nhớ
Nẻo trần vàng vỡ mộng chồn chân…(thơ Lê Đạt)
Thật ra, ông là ai?
Phần còn lại trên BBC:
Hồi tháng Giêng 2003, nhà báo Phạm Tường 
Vân, hiện sống tại  Sài Gòn, có cuộc phỏng vấn với nhà thơ Lê
 Đạt (1929-2008) nhưng  toàn bài nói chuyện chưa được đăng tải 
trên các báo Việt Nam.
Nay BBC Tiếng Việt xin giới thiệu bài với sự đồng ý của người phỏng vấn. Trước câu hỏi của nhà báo “Thật ra, ông là ai?“
Lê Đạt: Thú thật với chị tôi 
cũng chưa xác định  được tôi là ai. Con người vừa là “một” vừa là 
“nhiều”. Chỉ khi đậy nắp  quan tài đi sang thế giới bên kia người ta mới
 biết đích thực mình là  ai. Việc xách định ấy bao giờ cũng quá muộn vì 
chẳng ai có thể trở về từ  thế giới bên kia để trả lời những người sống 
mình đích thực là ai. Tôi  đành giới thiệu với chị một chân dung phần 
nào chính thức về Lê Đạt: Chị  đừng nghĩ tôi nói đùa. Có một nhà thơ lớn
 người Bồ Đào Nha tên là  Fernando Pessoa, ông viết dưới nhiều bút danh,
 mỗi bút danh có một tiểu  sử một phong cách khác nhau. Ông tâm sự “tôi 
tự cảm thấy gần những người  mình đã tạo ra hơn là gần chính bản thân 
mình.”
Nửa thám tử tự chung thân theo rõi
Nửa xổng tù thơ đổi chứng minh thư
…Theo khai sinh, thì tôi sinh năm 1929, tức 
tuổi Rắn. Nhưng bà cô  ruột nuôi tôi từ bé lại khẳng định tôi sinh năm 
1928, tức là tuổi Rồng.  Để vừa lòng chính quyền cũng như vừa lòng người
 đã nuôi mình, tôi xin  phép nhận mình là tuổi Rồng-Rắn.
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh…
Không biết có phải do vậy mà tôi thích làm thơ từ rất sớm chăng?
Cho anh tìm
những vùng quên tuổi dại
Thuở trăng sim soi lại bãi ú tim khờ
Phạm Tường Vân:Thời “tuổi dại” của ông như thế nào, trước khi nó vĩnh viễn bị tước đoạt?
Lê Đạt: Giá ai tịch thu tuổi 
dại cho tôi thì hay  biết mấy, vì chị biết không, mặc dầu năm nay đã 
ngoài 70 tuổi, tôi vẫn  thấy mình chưa chấm dứt được tuổi dại.
Ngoan cố thất tình tim vẫn mải
Khờ biết bao giờ hết dại yêu
Phạm Tường Vân:Ba mươi năm “lưu đày nội xứ” , quá dài trong cuộc đời một con người. Giả sử điều đó không xảy ra, bây giờ ông là ai?
Lê Đạt: Đúng, 30 năm không là
 gì với lịch sử nhưng  là quá dài với đời sống mỗi con người. Khi tôi và
 anh Trần Dần cùng các  bạn khởi xướng tập Giai Phẩm Mùa Xuân, châm ngòi
 cho phong trào Nhân Văn  Giai Phẩm sau này, tôi mới 25 ngót nghét 27 
tuổi. Có thể nói là tuổi  trẻ của tôi bị ngắt ngọn quá sớm, tôi đã mồ 
côi tuổi trẻ.
Giả sử điều đó không xảy ra, bây giờ tôi là ai 
ư? Tôi không phải thầy  tướng số để có thể trả lời chị. Chắc chắn tôi 
vẫn là Lê Đạt, nhưng là  Lê Đạt một cách khác.
Phạm Tường Vân: Trong khi hoàn toàn không có khả năng thay đổi tình thế, ông đã làm gì để cho nó ngắn lại?
Lê Đạt: 30 năm ấy thật là 
dài, nhưng không phải  không có lợi đối với tôi. Tôi đã “chạy” được một 
tấm thẻ đọc ở Thư viện  Uỷ ban Khoa học Xã hội. Vừa may lúc đó, các đoàn
 thể Việt Kiều tại Pháp  gửi về rất nhiều sách mới. Và ngoài thời gian 
đi lao động, ngoài thời  gian dịch sách –kiếm tiền, tôi đã đọc sách từ 8
 đến 10 giờ một ngày.  Nhiều khi tối về phải ăn cơm nguội, con gái cả 
của tôi đã nói nửa đùa  nửa thật: “Bố mê cô nào mà đi miết thế?” Những 
năm đó là những năm hạnh  phúc nhất đời tôi – Đó là những năm du học 
tuyệt vời mà không cần chạy  chọt Ban Tổ chức.
Phạm Tường Vân: Ông nổi 
tiếng là người lạc quan.  Nhưng hình như sự “lạc quan ngoan cố” mà ông 
luôn tỏ ra ấy không cứu nổi  những giây phút cực kỳ cô đơn và tuyệt 
vọng. Ông từng có ý định tự tử?
Lê Đạt: Tôi đã hơn một lần có
 ý định tự tử, nhưng  gay gắt nhất không phải là vào thời kỳ bị kỷ luật –
 thời kỳ đó tôi còn  mải đọc, mải viết, mải lo nghĩ đến vợ con và nhất 
là nghĩ đến việc phải  làm được một cái gì đó để chứng tỏ cho những 
người hành hạ khinh bỉ tôi  lúc bấy giờ biết rằng tôi không phải một 
“tên phản động vứt đi” như họ  tưởng. Sau chuyến đi Pháp thứ hai năm 
1999 về nước, tôi bỗng bị bệnh tật  triền miên. Tôi có mấy câu thơ tự 
hoạ được nhiều người yêu thích:
Tuổi lú lẫn, ngược nhầm ga trẻ dại
Hay ngây ngơ không biết lối về già
Tha thẩn chữ ngã ba…
Lúc này tôi có cảm giác như thượng đế đã phát 
hiện ra tôi đi nhầm  tầu, bắt buộc tôi phải lấy vé về già. Hàng tuần 
liền thức trắng – lại  thêm bệnh viêm đại tràng, động ăn chút gì khác lạ
 là bị tào tháo hành  hạ…
Tôi có thói quen ngày nào cũng đi bộ mấy vòng 
Bờ Hồ và viết mấy câu  thơ để tập luyện. Trong những ngày chán nản ấy, 
tôi cũng vứt bỏ luôn  thói quen hàng 40, 50 năm này. Tôi đã tìm hết cách
 chạy chữa cả Đông y  lẫn Tây y nhưng đều vô hiệu. Tôi cảm thấy cuộc 
sống của mình bắt đầu vô  dụng, mình đã bắt đầu làm phiền mọi người. Tôi
 hay nghĩ đến cái chết của  Hemingway:
“Người ta có thể chết nhưng không thể bị thua”
Tôi đã viết sẵn một lá thư vĩnh biệt:
“Như mọi người đã biết trong mấy năm nay, tôi 
hết sức chống đỡ bệnh  tật nhưng không có kết quả. Cái gì người ta khen 
tôi người ta cũng đã  khen rồi, cái gì người ta sỉ vả tôi, người ta cũng
 đã sỉ vả rồi. Tôi chủ  động đi trước cái chết bệnh tật một bước. Tôi 
không oán thán ai cả, chỉ  e mỗi một điều làm phiền lòng những người 
thân, bạn hữu và những độc  giả yêu mến tôi…”
Phạm Tường Vân: Nghĩa là ông đã mấp mé cái chết. Điều gì đã ngăn cản ông không ra đi?
Lê Đạt: Vợ tôi, không phải vì
 những lời khuyên can  hay khóc lóc của Thúy (tên vợ tôi), vì Thúy có 
biết gì về dự định ấy của  tôi đâu. Để các bạn hiểu rõ thêm, tôi xin 
phép được nói đôi điều về vợ  tôi. Gia đình Thuý là một gia đình nông 
dân nghèo, mẹ, bị chồng bỏ theo  vợ lẽ, phải lần mò lên tận Thái Nguyên 
(thuở đó Thái Nguyên là xa lắm)  cùng với đàn con nhỏ khai hoang kiếm 
sống. Vợ tôi phải ăn mày cửa Phật  một thời gian khá dài.
Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của 
Thuý một người làm bí  thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách 
mẹ vợ tôi bị quy là  gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem
 ra xử bắn. Thuý  đương được ở Đoàn Kịch Trung Ương, lúc nào cũng nơm 
nớp bị đưa về xã để  đấu tố. Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu – cả nhà may 
mắn thoát nạn, và Thuý  trở thành nữ diễn viên trẻ xuất sắc nhất của 
Đoàn kịch nói Trung Ương.
Xem Thuý diễn “Chiến thắng Nghĩa Lộ” và “Hàng 
ngũ Hoà Bình” Nguyễn  Huy Tưởng đã bốc đồng nói với tôi: “Cô Thuý đúng 
là một tài năng!”. Vừa  hết hạn của mẹ và anh, thì Thuý lại lâm vào hạn 
của chồng. Khi ấy, Thuý  mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt 
bụng đến vạch rõ “bộ mặt  phản động của Lê Đạt” và khuyên cô cắt đứt với
 tôi.
Người ta luôn lục balô của cô để xem có chứa 
chấp tài liệu phản động  gì không… Các anh của Thuý cũng khuyên cô nên 
cắt đứt… Chỉ có bà mẹ là  không nói gì, thỉnh thoảng bà chỉ nói nhỏ nhẻ 
một câu: “Con người không  nên ăn ở thất đức”. Bà cũng chỉ dám nói khẽ 
vậy thôi. Người ta đã vẽ ra  trước mắt Thuý một tương lai tươi sáng như 
thế nào nếu Thuý cắt đứt với  tôi và ngày nào cô cũng “được kiểm thảo” 
để phân rõ đúng sai. Nhưng Thuý  nhất định không chịu chỉ vì một lý do: 
“Tôi thấy anh Lê Đạt không giống  những lời các anh nói”. Và lập tức cô 
không được làm diễn viên nữa, bị  đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử 
như một con chiên ghẻ.
Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì 
tôi có lẽ đã thân tàn  ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cả cuộc đời nghệ thuật 
của cô và cô vì tôi mà  mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ.
Khi tôi được phục hồi danh dự, chị Song Kim có 
nói với Thuý: “Em làm  giấy khai thành tích đi, chị sẽ chứng nhận để em 
được công nhận là nghệ  sỹ ưu tú, không có thiệt quá”. Thuý cảm ơn chị 
Song Kim nhưng nhất định  không làm: “Mình đã mất cả một cuộc đời, danh 
mác mà làm gì”.
Suốt đời đối với vợ tôi mang nặng một mặc cảm 
tội lỗi. Được phục hồi,  tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thuý thì
 được cái gì ngoài chứng  bệnh suy nhược thần kinh tê buốt khắp mặt đến 
mức nhiều khi không thể  hé được miệng. Nhưng Thuý vẫn vui vẻ và nhất là
 chăm chỉ luyện tập thể  dục. Nhiều đêm mất ngủ tôi thấy Thuý tập “Suối 
nguồn tươi trẻ” và ngồi  thiền cho đến khi rất khuya, rồi sáng lại dậy 
sớm kiên trì tập không hé  răng phàn nàn một câu vì sợ làm phiền tôi và 
các con.
Chính nghị lực ấy, chính bài học không lời ấy 
đã trụ tôi lại với cuộc  sống. Tôi thấy mình lẳng lặng bỏ đi như thế là 
không phải đối với vợ.  Và tôi bỗng nhớ đến đoạn kết một truyện ngắn “Lá
 thư tuyệt mệnh” tôi  viết năm 1994:
“Phàm mọi việc trên đời nhất thiết không nên vội, đặc biệt khi làm chữ và khi sắp tự tử.”
Phạm Tường Vân: Khi 20 tuổi, ông tâm niệm điều gì?
Lê Đạt: Khi 20 tuổi, tôi đã khát khao cách tân thơ Việt. Đến tuổi ba mươi, bốn mươi vẫn thế.
Phạm Tường Vân: Và bây giờ, khi đã ở tuổi U80?
Lê Đạt: Sức khoẻ tôi đã giảm 
sút nhiều, bệnh tật  triền miên, nhưng tôi vẫn “lạc quan ngoan cố” vẫn 
ngày ngày đi bộ quanh  Bờ Hồ và cố gắng khoẻ để tiếp tục làm thơ như tôi
 đã từng làm một nửa  thế kỷ qua.
Phạm Tường Vân: Gia nhập sớm
 nhưng có vẻ như thơ  ông được biết tới khá muộn, cách những người như 
Trần Dần, Hoàng Cầm,  Phùng Quán một khoảng khá xa về thời gian lẫn 
không gian. Trong thâm  tâm, ông nhìn nhận đóng góp của họ cũng như của 
ông ra sao đối với giai  đoạn lịch sử này ? Với nền văn học nói chung và
 nhóm Nhân Văn nói riêng?  Vị trí, vai trò, sứ mệnh mà ông tự nhận thức 
đối với thế hệ của mình?  Đối với nền thơ Việt?
Lê Đạt: Năm 1951 tôi tham gia
 chiến dịch giải phóng  Lào Cai và gặp Trần Dần tại đó. Hai anh em bàn 
rất nhiều về thơ thế  giới và trong nước. Lúc ấy chúng tôi đều rất thích
 nhà thơ Nga  Mayakovski và những bài thơ cách mạng của ông. Ngoài rất 
nhiều ý kiến  tản mạn có một ý kiến quan trọng về thơ Tố Hữu – cả hai 
chúng tôi đều  nhất trí cho rằng anh Tố Hữu là một nhà thơ của cách mạng
 chứ không phải  một nhà cách mạng thơ vì bút pháp của anh căn bản là 
bút pháp của thơ  Mới năm 1930.
Hoà bình lập lại, tôi không ngờ rằng ý kiến đó 
đã khởi xướng lên một  cuộc phê bình thơ tập Việt Bắc. Cùng với việc phê
 bình thơ Việt Bắc,  Trần Dần và tôi rủ Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác ra 
một tập thơ trên cơ sở  tự do sáng tác. Bài của ai người đó chịu trách 
nhiệm với chủ đề chống  công thức quan liêu và một phong cách khác thơ 
tiền chiến. Chính trong  các cuộc trao đổi này hẳn anh Trần Dần đã đề ra
 khẩu hiệu làm mất lòng  rất nhiều nhà thơ lớp trước “Hãy chôn thơ tiền 
chiến” và ít lâu sau tập  Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời.
Lúc này Phùng Quán chưa tham gia nhưng Quán đã 
là một nhà văn trẻ hết  sức nổi tiếng với cụm cuốn tiểu thuyết “Vượt Côn
 Đảo”. Bản thân tôi  cũng chưa biết mặt Phùng Quán. Một hôm đương làm 
việc tại toà soạn báo  Văn Nghệ – số 2 Hai Bà Trưng, tôi thấy một anh bộ
 đội cấp Trung sĩ đến  tìm và tự giới thiệu “Em là Phùng Quán”. Vui 
chuyện tôi hỏi Phùng Quán:  “Bọn mình định ra một tập thơ, cậu có muốn 
tham dự không?” Quán rất thú  vị và đưa cho tôi bài “Chị quét rác”. Tôi 
quen và thân với Phùng Quán từ  đó. Nhưng khi đưa việc Phùng Quán tham 
gia, có mấy anh không bằng lòng.  Một anh nói “Phùng Quán nó là đàn em 
không ngồi cùng chiếu với anh em  mình được”. Tôi nói đùa (tôi vốn có 
tật hay nói đùa): “Đây là việc làm  thơ chứ có phải việc làng đâu mà 
chia ra chiếu trên, tiên chỉ với thứ  chỉ”. Lời nói đùa ấy đã làm phiền 
đến một người bạn, nó trở thành biệt  hiệu của anh.
Tưởng làm chung với nhau một tập thơ cho vui, 
ai ngờ hậu quả của nó  lại nặng nề đến thế. Tập thơ ra đời được ít ngày 
đi đâu cũng thấy người  ta xì xào hai câu thơ:
“Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà/Chỉ
 thấy mưa sa trên màu  cờ đỏ” của anh Trần Dần và mấy câu “Những kiếp 
người sống lâu trăm  tuổi/Ỳ như một dãy bình vôi/ Càng sống càng 
tồi/Càng sống càng bé lại”  của tôi.
Trần Dần, Tử Phác đương đi tham gia cải cách 
ruộng đất thì bị Cục  Quân Pháp bắt, tôi bị “giữ” ở Ban Tuyên Huấn Trung
 ương 15 ngày để kiểm  thảo và cuốn “Giai Phẩm Mùa Xuân” bị tịch thu.
Thú thật nhận được giấy triệu lên Ban Tuyên 
Huấn tôi vốn vẫn cho là  một việc hiểu lầm. Khi tôi lên trụ sở Ban Tuyên
 Huấn Trung ương ở phố Lý  Thường Kiệt thì anh Tố Hữu còn bận làm việc 
trên gác. Tôi thấy cuốn  Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn với chi chít 
những dấu hỏi, những dấu  chấm than và những lời nhận xét của chính Tố 
Hữu. Tôi rất thuộc nét chữ  của anh vì chúng tôi đã làm việc bên anh 
nhiều năm.
Bên mấy câu thơ vô hại của tôi: “Bay cho cao! 
Bay cho xa!”. Tôi thấy  nhận xét của anh ghi bằng bút bi đỏ: “Bay đi 
đâu? Hay là bay vào Nam với  Mỹ Diệm”. Tôi giật mình biết rằng cái công 
việc “làm vui” của mấy anh  em đã vô tình trở thành một vụ án chính trị 
nguy hiểm.
Phạm Tường Vân: Từ Giai Phẩm
 Mùa Xuân đến tờ báo  Nhân Văn, từ chủ trương “chôn thơ Tiền chiến” đến 
đấu tranh đòi quyền  dân chủ và tự do sáng tác, các ông đã đi một bước 
khá xa: từ nghệ sĩ lên chiến sĩ. Liệu nó có phải là con đẻ của một trào lưu dân chủ mà các ông du nhập qua sách báo? Xin ông cho biết thêm chi tiết về vụ án này
Lê Đạt: Về vụ án này, nhà văn
 Pháp George Boudarel  đã phân tích rất nhiều trong cuốn “Trăm hoa nở 
trong màn đêm nước Việt”.  Và anh có nhận xét rằng Giai Phẩm Mùa Xuân bị
 ảnh hưởng của phong trào  “trăm hoa đua nở” bên Trung Quốc vì Trần Dần 
đã sang Trung Quốc và chịu  ảnh hưởng của Hồ Phong.
Khi sang Paris năm 1997, tôi có gặp Boudarel và
 đã trình bày để anh  rõ rằng Trần Dần và tôi đều bị ảnh hưởng nặng nền 
văn hoá Pháp, đặc biệt  là Voltaire và Russeau, chúng tôi mít đặc tiếng 
Trung Quốc và có thể  Trần Dần chỉ vô tình đã nghe thấy nhắc đến tên Hồ 
Phong tại một quán sủi  cảo hay vịt quay nào đó. Hơn nữa, Giai Phẩm Mùa 
Xuân xuất bản vào tháng  Giêng năm 1956 mà phong trào “trăm hoa đua nở” ở
 Trung Quốc đến tháng 5  năm 1956 mới mở màn. Nghe nói lần tái bản 
Budarel có sửa lại.
Tháng 6 năm 1956 khi ở Trung Quốc bắt đầu phong
 trào “Trăm hoa đua  nở, trăm nhà đua tiếng” thì ít thời gian sau ở Việt
 Nam cũng bắt đầu có  phong trào “mở rộng dân chủ” trong văn nghệ. Anh 
Tố Hữu tự kiểm điểm về  công tác lãnh đạo văn nghệ và không khí trong 
giới Văn nghệ chưa bao giờ  sôi nổi như vậy. Nổi bật lên trong phong 
trào đó là anh Nguyễn Hữu  Đang, anh gần như là người phát ngôn của lớp 
học. Tôi xin giới thiệu mấy  nét về anh Nguyễn Hữu Đang. Anh là cán bộ 
văn hoá lâu năm của Đảng, có  một vai trò hàng đầu trong Phong trào 
truyền bá Quốc Ngữ do Đảng phát  động trước Cách mạng. Trong kháng chiến
 chống Pháp, do bất đồng ý kiến  với một số cán bộ lãnh đạo, anh Đang bỏ
 công tác về ở Thanh Hoá và cũng  thôi không sinh hoạt Đảng.
Sáng kiến ra một tờ báo là của Nguyễn Hữu Đang.
 Anh nói với Nguyễn  Đình Thi đại ý “tao sẽ ra một tờ báo để bọn Giai 
Phẩm Mùa Xuân” làm.
Do hoạt động lâu năm ở Hà Nội trước cách mạng 
nên anh Đang quen biết  rất nhiều trong giới in ấn. Lúc này Trần Dần, Tử
 Phác đã được thả và  “Giai Phẩm Mùa Xuân” cũng đã được tái bản. Nhưng 
anh em chỉ mới nghĩ đến  việc tiếp tục ra tập san chứ không nghĩ đến 
việc ra báo vì đa số chúng  tôi đều là người sáng tác mà ra một tờ báo 
thì quá có rất nhiều việc  phức tạp vượt quá sức mình.
Tuy thế chúng tôi ủng hộ việc Nguyễn Hữu Đang 
ra báo. Vì Trần Dần và  tôi đều bận việc riêng nên anh em Giai Phẩm Mùa 
Xuân cử Hoàng Cầm tham  gia với Nguyễn Hữu Đang.
Lúc đó tờ báo chưa có tên và không biết Đang 
hay Hoàng Cầm đã nghĩ ra  tên Nhân Văn. Được ít ngày trước không khí hết
 sức sôi nổi của anh em  với việc ra báo, Trần Dần nói với tôi: “Hoàng 
Cầm nó dễ bị lôi kéo, mày  phải tham gia mới được”. Vì anh em vẫn đánh 
giá tôi là người có nhãn  quan “chính trị” nhanh nhạy và “lập trường” 
tương đối vững, có thể “đối  trọng” với Nguyễn Hữu Đang được.
Vậy là ban phụ trách của tờ Nhân Văn gồm Nguyễn
 Hữu Đang, Hoàng Cầm  và tôi. Anh Hoàng Cầm phụ trách việc lấy sáng tác 
của anh em văn nghệ  sĩ, còn Đang và tôi thì chịu trách nhiệm về đường 
hướng chung của tờ  báo. Đang nói với tôi: “Hay là cậu làm chủ nhiệm”. 
Tôi trả lời “Mình là  đảng viên sao có thể làm chủ nhiệm được, có lẽ ông
 nên đứng tên vì ông  thôi sinh hoạt Đảng đã lâu rồi”. Nguyễn Hữu Đang 
lắc đầu “Mình cũng  không làm được”… Và Đang bất ngờ (?) đưa ra sáng 
kiến đề cử cụ Phan  Khôi. Đó là một sáng kiến cực hay và cũng hết sức 
đột ngột.
Tôi lại phải nói một vài lời về cụ Phan Khôi. 
Cụ Phan quen tôi từ  kháng chiến chống Pháp và ở cùng cơ quan Văn nghệ 
với tôi đến ba bốn  năm, nhưng hai bên ít có quan hệ, một là tôi thuộc 
lớp hậu sinh, hai là  cụ Phan rất khó tính và ít muốn giao tiếp với 
người khác. Nhưng sau khi  Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, cụ Phan rất thích 
bài “Bình vôi” của tôi nên  quan hệ giữa hai người có “ấm” hơn.
Không biết Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm là 
người đến mời cụ, chỉ  thấy Đang nói lại với tôi là: “Cụ Phan tỏ ra hết 
sức hào hứng”. Là một  trong mấy người phụ trách chính của tờ báo, tôi 
thấy có trách nhiệm phải  đến thông báo với cụ một cách sòng phẳng: “Tờ 
báo làm việc trong hoàn  cảnh rất du kích nên chúng tôi không có điều 
kiện đưa cụ duyệt các bài  với tư cách là chủ nhiệm đâu”. Cụ Phan trả 
lời ngay “Tôi đứng tên là để  chịu trách nhiệm, còn mọi việc là do các 
ông làm”. Rồi cụ cười rất to.
Báo Nhân Văn đương in số 5 thì bị đình bản. 
Người trong nước, ngoài  nước, rồi giới hữu trách đã có ý kiến rất nhiều
 về tính chất của tờ báo  Nhân Văn. Tôi phải nói khẳng định với chị 
rằng: tất cả anh em Giai Phẩm  Mùa Xuân chỉ muốn ra tờ Nhân Văn nhằm đấu
 tranh với những hiện tượng  quan liêu và mất dân chủ trong sinh hoạt xã
 hội. Trần Dần và tôi (tôi  nghĩ cả Nguyễn Hữu Đang nữa) quá rõ lực 
lượng của Đảng để làm một chuyện  rồ dại là “chống lại” sức mạnh hùng 
hậu đó bằng một tờ báo. Hơn nữa  trước sau chúng tôi vẫn là những người 
làm thơ, coi thơ là sự nghiệp  chính của đời mình và không có tham vọng 
chính trị. Tôi rất tin ở tính  khách quan của thời gian và sự công minh 
của lịch sử.
Chúng tôi chưa làm được gì nhiều cho văn học vì chúng tôi bị “hoạn nạn” quá sớm.
Phạm Tường Vân: Trong trường
 hợp này, ta có thể lý  giải thế nào: bi kịch tạo nên nhân cách hay nhân
 cách tạo ra bi kịch?  Sau những gì đã xảy ra, ông có nghĩ rằng, bi kịch
 đôi khi chính là nguồn  dinh dưỡng hay một thứ vắc – xin của tâm hồn, 
mà mỗi nhà thơ (trẻ) để  phòng ngừa chứng hoang tưởng hoặc ưa làm dáng, 
trước hết nên dọn một món  cho mình?
Lê Đạt: Bi kịch không tạo ra 
nhân cách và nhân cách  cũng không tạo ra bi kịch. Bi kịch đứng về mặt 
khách quan mà nói, ít  nhiều đều có tính chất bất hạnh. Bi kịch có thể 
tôi luyện một tính cách  nhưng cũng có thể huỷ diệt một tính cách. Tôi 
chưa bao giờ coi bi kịch  là một chất dinh dưỡng cho tâm hồn. Bi kịch 
không phải là phép thể dục  dưỡng sinh. Các nhà thơ trẻ để tránh khỏi 
nhạt nhẽo sáo mòn tuyệt đối  không nên đến khách sạn 5 sao, cửa hàng đặc
 sản gọi cho mình một món bi  kịch. Và càng không nên tự bịa ra một bi 
kịch để tập dượt.
Muốn tránh khỏi nhạt nhẽo và sáo mòn nhà thơ 
phải tha thiết với  nghiệp thơ của mình, luôn nuôi dưỡng tình chữ bằng 
một lao động chữ cần  mẫn, khổ luyện, và một quá trình học hỏi (nên học 
thêm một hai ngoại ngữ  để có thể đọc được nguyên bản vì đọc thơ dịch là
 một việc vạn bất đắc  dĩ). Mayakovski khuyên nhà thơ phải luôn sẵn sàng
 ở tư thế người làm  thơ, nẩy được một ý hay, chụp được một hình ảnh 
đẹp, một tập hợp từ đắt  phải ghi ngay vào sổ coi như một kho hậu cần 
dồi dào thường xuyên cho  thơ.
Một trong những khuyết điểm của các nhà thơ trẻ
 là còn làm thơ chơi  bời quá, chưa coi nó là một việc nghiêm túc nhất 
của đời mình. Các nhà  thơ trẻ còn quá quen với cách làm thơ ngẫu hứng. 
Ai cũng biết cảm hứng  là cần nhưng cảm hứng chỉ là khởi đầu, sau đó là 
mồ hôi và sự vật lộn  với từng con chữ. Một nhà thơ đã nói đùa: “thơ là 
một lạng cảm hứng cộng  với một tạ mồ hôi.”
Lẽ dĩ nhiên không phải người nào cũng được như 
Đỗ Phủ “làm một câu  thơ quỷ thần không khiếp kinh, chết không nhắm được
 mắt”. Trong các sách  người ta thường nêu gương nhà văn hào Nga 
L.Tolstoy viết đi viết lại  bốn lần bộ tiểu thuyết khổng lồ “Chiến tranh
 và hoà bình” và thường  nhưng lại nêu gương Tào Thực đi bảy bước làm 
bảy câu thơ, làm như người  làm thơ càng nhanh càng tài giỏi.
Nếu vậy thơ là một cuộc chạy đua tốc độ còn gì.
 Đó là hình ảnh sai  lạc về người làm thơ. Tào Thực đã phải thức nhiều 
đêm trắng, đọc hàng bồ  sách Thánh hiền, và luyện tập vã mồ hôi mới đạt 
được cái trình độ  thượng thặng đó.
Và các bạn trẻ cũng chẳng phải đi tìm bi kịch ở đâu xa. Nó ở ngay trước mặt các bạn khi các bạn đã chọn nghiệp làm thơ.
Hai chục thế kỷ đã có bao nhà thơ có tài, tưởng
 họ đã tiêu thụ hết  kho chữ, mình là kẻ sinh sau đến muộn lại nhặt 
chiếc găng thách đấu lên  tay, kiên quyết tìm cho ra một góc nhìn mới 
lạ, một cách nói lạ, một  ngôn ngữ của riêng mình, bản thân nó đã là một
 bi kịch hết sức to lớn.
Công cuộc cách tân thơ Việt và các nhà thơ 
tiếng Việt nhiều tham vọng  cách tân hiện nay thì sao? Một nền thơ muốn 
sống phải luôn luôn thay  đổi hay như người ta quen nói “luôn luôn phải 
cách tân”.
Cuộc cách tân trong thơ Việt Nam đương đại tiếp
 tục diễn ra ở thế hệ  mới từ Nguyễn Quang Thiều đến các nhà thời thơ 
của thời mở cửa như Văn  Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh,… Họ chưa
 có những thành tựu đáng  kể nhưng người ta có quyền tin vì tất cả đều 
thấy phải viết khác Thơ Mới  năm 1930.
Ở các nhà thơ Việt Nam ngoài nước gần đây, tôi 
cũng thấy cùng xu  hướng tìm tòi ấy. Cách tân một nền thơ là một công 
việc gian nan và lâu  dài, không thể sốt ruột được. Tôi đã cố gắng làm 
tất cả những gì tôi có  thể làm được với tư cách một nhà thơ yêu nước và
 yêu chữ. Tôi đã nhọc  lòng với việc cách tân thơ Việt và sẽ tiếp tục 
cho đến khi nào sức mình  còn có thể làm được. Còn kết quả nhiều hay ít 
thì xin để dành cho giới  phê bình và độc giả mà bao giờ tôi cũng hết 
sức tin yêu và kính trọng.
Phạm Tường Vân: Những truyện
 ngắn của ông rặt tên  Tây và viết những chuyện bên Tây, dù khi viết ông
 chưa sống ở đó ngày  nào. Ông giải thích chuyện này thế nào? Một tình 
“yêu bóng” hay khát  vọng đạt tới sự bình đẳng với văn minh Tây phương?
Lê Đạt: Trong thời buổi toàn 
cầu hoá và thông tin  đại chúng, việc mời các nhà văn và các độc giả 
Việt Nam đi thực tế “nền  văn hoá thế giới” một chuyến chẳng là một việc
 đáng làm sao? Tôi đã trả  lời một bậc đàn anh trong làng văn xuôi Việt 
Nam: “một chuyến tham quan  nền văn hoá thế giới ít nhất cũng thú vị như
 một chuyến tham quan Tây  Bắc của ông”.
Phạm Tường Vân: Năm 97, ông 
được cấp phép “xuất  ngoại” với tư cách là một nhà thơ Việt Nam nói 
tiếng Pháp trong liên  hoan Pháp thoại đa sắc (Một điều tưởng chừng như 
không thể xảy ra!).  Những cuộc tiếp xúc văn hóa với công chúng và các 
đồng nghiệp nơi ấy có  tạo ra một ngã rẽ đáng kể trong tư tưởng của ông?
Lê Đạt: Năm 1997, tôi được 
cấp phép xuất ngoại.  Cũng lắm gian nan lắm, nhưng chúng ta không có 
thời gian để kể lể ở đây.  Khi tới Paris, một chị bạn người Pháp hỏi 
tôi: “Đây là lần đầu tiên ông  đến Paris?”.
Tôi trả lời “Chị lầm, đây là lần đầu tiên tôi 
trở lại Pari” Chị bạn  có vẻ ngạc nhiên hỏi: “Lần đầu tiên ông đến Paris
 vào năm nào”. Tôi trả  lời: “Từ hồi tôi còn nhỏ qua những trang sách 
của Daudet, Anatole  France, Victor Hugo…” Chị bạn nắm tay tôi cười hỏi:
 “Để ăn mừng cuộc hội  ngộ này, ông có cho phép tôi được ôm hôn ông 
không?”
Chuyến đi Pháp để lại cho tôi nhiều ấn tượng 
đẹp đẽ và xúc động nhưng  nó không tạo ra một ngã rẽ nào đáng kể trong 
tư tưởng tôi. Tôi đã nói  tất cả những điều đó trong tập thơ “Tự tình 
Eiffel” mà Tạp Chí Thơ Việt  hải ngoại có nhã ý xuất bản tại California 
như lời tỏ tình với nước nền  văn hoá Pháp của một nhà thơ già Việt Nam.
Phạm Tường Vân: Nếu có thể, ông hãy điểm ra những dấu mốc quan trọng trong tư tưởng và thơ ca của mình?
Lê Đạt: Tôi không thể điểm 
một cách cụ thể những  dấu mốc trong tư tưởng và thơ ca của mình vì trí 
nhớ của tôi về ngày  tháng rất tồi. Tôi chỉ có thể nói đại thể quá trình
 diễn biến của nó.  Tôi làm thơ từ rất sớm, lẽ dĩ nhiên là theo gương 
các bậc đàn anh của  phong trào thơ Mới 1930. Thời kháng chiến, tôi và 
Nguyễn Đình Thi mới  đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không
 vần như anh Thi. Tôi  trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi
 và Trần Dần chịu ảnh  hưởng của Mayakovski rất đậm.
Chán cảnh đi ở trọ, tôi đã cố tìm cho mình một 
tiếng nói. Bài “Cha  tôi” và bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” đã 
cho tôi một vị trí nhất  định trong làng thơ Việt Nam. Những bài này có 
một số hình ảnh mới mạnh  bạo, nhưng vẫn còn hết sức dè dặt về mặt thi 
pháp.
Trong thời kỳ năm năm đọc sách tại Thư viện 
khoa học xã hội, tôi đã  cố gắng theo dõi tất cả những trào lưu của thơ 
hiện đại thế giới, đặc  biệt là thơ Pháp. Một là vì tôi am hiểu tiếng 
Pháp, hai là vì nền thơ ca  Pháp vào những năm 50 chiếm vị trí đầu tầu 
trong nền thơ thế giới.
Trong cuộc đời, thỉnh thoảng người ta gặp được 
những câu định mệnh,  nó thay đổi cả một lộ trình. Tôi làm quen với thơ 
Mallarmé từ đã lâu  nhưng cùng một lúc với câu nói nổi tiếng của nhà 
phân tâm học Pháp Lacan  “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” tôi 
phát hiện lại lời phát  biểu của Mallarmé mà tôi đọc đã từ lâu nhưng 
không chú ý “Hãy trả lại  tính chủ động cho chữ.”
Tôi bắt đầu đọc lại Freud, đọc lại Mallarmé và 
đọc lại Satres: Một  câu nói của Satres về thơ cũng khiến tôi đặc biệt 
chú ý “Nhà thơ khước  từ sử dụng ngôn ngữ”. Tôi phát hiện ra rằng phần 
lớn các nhà thơ Việt  Nam trong đó có tôi, thường coi chữ như một dụng 
cụ thụ động để diễn đạt  một nội dung có trước, nghĩa là đều làm việc 
chủ yếu từ cõi hữu thức.  Cổ nhân từ lâu đã nói “ý tại ngôn ngoại” nhưng
 chỉ coi đó là một phương  pháp tiết kiệm lời chứ chưa phải chủ trương 
thật sự “giải phóng chữ”,  các cụ vẫn coi chữ như những phương tiện vận 
tải một nội dung “văn dĩ  tải đạo”. Tôi đã tập luyện vất vả rất nhiều để
 trả lại tính chủ động cho  chữ.
Việc tìm tòi của tôi những ngày đó hết sức 
thanh thản, tôi chẳng bận  tâm gì đến việc có xuất bản hay không vì lúc 
đó tôi vẫn bị kỷ luật “treo  bút” và tôi đinh ninh rằng án đó có thể kéo
 dài đến hết đời mình. Tôi  chỉ nghĩ đến việc tạo ra một ngôn ngữ mới 
khác hẳn với ngôn ngữ thơ Việt  Nam cho đến lúc đó. “Bóng chữ” ra đời 
trong những ngày miệt mài lao  động này.
“Bóng chữ” đối với thơ tôi thật sự là một bước ngoặt. Tôi hết lòng cầu mong đó cũng là một bước nhúc nhích của thơ Việt.
Phạm Tường Vân: Ông đang đọc gì?
Lê Đạt: Thị lực của tôi ít 
lâu nay sút kém nhiều  nên việc đọc sách rất khó khăn. Tôi đang đọc lại 
một số sách về đạo  Thiền và đọc lại các nhà thơ thế giới mà tôi ưa 
thích.
Phạm Tường Vân: Cuộc sống hiện tại của ông?
Lê Đạt: Vẫn đi bộ quanh Bờ Hồ hàng ngày và làm thơ.
Phạm Tường Vân: Nếu có thể trở thành một sinh vật khác, ông muốn làm họ hàng với cây và con gì?
Lê Đạt: Tôi muốn làm họ hàng 
với cây mimôza. Tôi  xin trích một đoạn trong bài tựa tập thơ “Mimơza” 
của tôi để chị hiểu rõ  thêm việc lựa chọn ở trên.
“Cách đây hai mươi năm khi viết…
Nắng tạnh heo mày hoa lạnh
Mimôza chiều khép cánh mi môi xa
Tôi chưa biết loài hoa này đối với tôi là một định mệnh”
Sau khi chùm thơ được công bố chừng một tháng, 
một nữ độc giả giấu  tên tại thành phố Sài Gòn gửi tôi một nhành mimoza 
ép với một lời cáo  lỗi: “Em không ép được màu vàng rực nắng lẫn mùi 
hương hoang dại của  hoa”…
Sau hai năm tôi lại có dịp tái ngộ Paris, vào 
lúc mùa Mimoza có thể  sắp đi xa. Trên đường về Grenoble dự “Mùa xuân 
Việt Nam” điều lo lắng  sâu xa, rồ dại nhất của tôi là lo lỡ hẹn thơm 
một loài hoa rừng. Đời một  người chữ bận tâm chống chủ nghĩa lãng mạn 
có thể coi đây là một sự trả  thù của hoa? Và hôm nay khi ngồi Paris/Hà 
Nội, tôi vẫn chưa cắt cơn  mimôza…”
Bóng buồm khuất cõi xanh biển nhớ
Nẻo trần vàng vỡ mộng chồn chân… 
Phạm Tường Vân: Nếu ở Việt Nam, mỗi công dân được sử dụng súng như bên Mỹ, ông sẽ nổ vào đâu?
Lê Đạt: Nếu ở Việt Nam mỗi 
công dân được sử dụng  súng như bên Mỹ, tôi sẽ chẳng nổ vào đâu cả, tôi 
sẽ đem súng đổi lấy một  cây bút công nghệ cao có thể viết sáng trong 
đêm tối những sao chữ. 
Thêm: 

No comments:
Post a Comment