Vô Sắc Thiền Sư 2013/08/27
Những
người sinh từ năm 1925 đến 1945, chắc vẫn còn nhớ những chữ không hay về
giới tăng sĩ Phật Giáo như: “Sư Hổ Mang”, “Sư nói sư phải, vãi nói vãi
hay”, “Miệng Nam mô, bụng một bồ dao găm”…
Điều đó chứng minh rằng Đạo
Phật đã trải qua nhiều giai đoạn trầm luân, các tu sĩ sống xa rời lời
Phật dậy, mà chỉ chiều theo nhục dục để biến thành môt loại gọi là “Sư
Hổ Mang”, một loại rắn độc, chuyên luồn sâu, núp lén để cắn người. Khi
Vua Lý Công Uẩn lên ngôi, việc đầu tiên của Ngài là thanh lọc thành phần
tu sĩ. Ai không tu hành chân chính, đều bị gọi đi lính. Sư nào gian
dâm, nhũng nhiễu dân chúng thì bị đánh đòn, đầy đi nước độc. Từ đó, đạo
Phật mới khởi sắc được một thời gian. Nhưng đến thế kỷ 20, những sa đà
trầm trọng vẫn còn, nên mới có “nhu cầu chấn hưng Phật Giáo” như trong
bài viết của “Phật Giáo Nguyên Thủy” sau đây:
“Nhu
cầu chấn hưng Phật giáo được coi là thống nhất trong giới trí thức, sĩ
phu yêu nước, không phải chỉ vì lợi ích của Phật giáo, mà trên hết là vì
lợi ích của đất nước, của dân tộc:
“Các
bài viết của Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên Âm của Phan Khôi trên báo
Tràng An đầu những năm 1930 cũng có ý kiến tương tự với quan điểm của
Phan Chu Trinh khi cho rằng chấn hưng Phật giáo là một việc làm có lợi
ích cho quốc dân.
Như
vậy, việc chấn hưng Phật giáo đã nhận được sự tán đồng của nhiều chí sĩ
yêu nước đầu thế kỷ XX. Những hiện tượng được ghi nhận trong sách Phong
trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954) đến nay đối
với chúng ta không phải đã là chuyện dĩ vãng. Ở giới tu sĩ Phật giáo
thì: “Nhiều nhà sư đã trở thành người thầy cúng độ nhật qua ngày, quên
đi vị trí dẫn dắt tâm linh trí tuệ của mình. Chúng ta có thể thấy rõ
hiện trạng này qua sự phản ánh của nhiều người tâm huyết đối với sự
nghiệp chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Trong
bài Hiện trạng Phật giáo ở xứ ta, Thanh Quang đau buồn trước hiện trạng
Phật giáo nước nhà. Ông viết: “Đau đớn thay ở xứ ta những hạng người
xuất gia vào chùa, phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo nhịp hơi cho
hay tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác, cũng
tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái mà xem thì có khác nào người
trần tục ở trong Phật giáo, họ tưởng học thế là đủ rồi, nói bậy nói càn
quên mất giá trị, hoặc có người hỏi đến Phật pháp là gì, ôi tuyệt nhiên
không biết. Thật là một điều tai hại rất lớn trong Phật giáo vậy””
Sách
Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954) cũng
dẫn lại lời Dương Bá Trạc (báo Đuốc Tuệ, số 101, 1939): “Các vị đại đức,
các vị trưởng lão cũng chẳng có pháp lực gì đối với sư bác, sư ông.
Người có học lực, có giới hạnh với người không giới hạnh cũng chẳng hơn
kém gì nhau miễn ai khéo luồn lỏi, xu phụ thì được địa vị tốt, bổng lộc
nhiều, mà ai vụng luồn cạnh chiều lòng thì phải địa vị xấu, bổng lộc
kém. Chữ thánh hiền chúng vùi sâu xuống đất, nghĩa lục hòa lại biến ra
tro, thậm đến nỗi giành chùa giành chỗ, ghen ghét cùng nhau, khích bác
cùng nhau, oán phẫn cùng nhau. Người lớn không thương yêu người nhỏ,
người dưới không kính nể người trên, người có không giúp đỡ người không,
người khôn không bảo ban người dại, người đắc thời đắc vị không bênh
vực người cô cùng hèn yếu, người lão thành tôn trưởng không trông nom
người nhỏ bé thơ ngây, đối đãi với nhau cũng bỉ thử nhân ngã quá kẻ Việt
người Tần, gặp sự khốn ách hoạn nạn của nhau cũng cái lối làng xóm cháy
nhà bằng chân như vại. Những xú kịch, thảm kịch đáng thương, đáng bỉ
xảy ra thường thường, không sao kể xiết…”.
Cùng
với ý kiến của Dương Bá Trạc, quyển sách cũng trích dẫn nhân định của
Thiều Chửu: “… Chính vì vậy, một hệ quả tất yếu là xuất hiện những nhà
sư chất lượng kém, vi phạm giới luật. Họ lảng tránh việc hoằng dương
chính pháp, hoằng pháp lợi sinh, chủ yếu kiếm sống bằng việc thực hiện
những nghi lễ tôn giáo mang nặng tính chất mê tín, buôn Thần bán Phật,
khiến dân chúng phê bình Phật giáo là “Miệng Phật tâm xà”, “Miệng nam
mô, bụng một bồ dao găm”. Thực tế này khiến cho thế gian không mộ Phật,
không kính Tăng”.
Tình
trạng được ghi nhận ở trên, đến nay, sau gần một thế kỷ, rất tiếc vẫn
chưa phải là chuyện khó tìm, nhất là ở các chùa quê. Một bộ phận không
nhỏ Phật giáo Việt Nam vẫn mang nặng màu sắc mê tín, cúng bái, lễ lạy,
người Tăng sĩ vẫn là thầy tụng đám.
Nhìn
lại lịch sử của Đạo Phật theo “giacngo.vn/lichsu/phatgiaovietnam”, thì
biết rằng Đạo Phật truyền đến Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ thứ Nhất.
Đến cuối thế kỷ thứ hai, Việt Nam đã thành lập được một trung tâm Phật
Giáo quan trọng trong vùng, thường được gọi là trung tâm Phật Giáo Luy
Lâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc thành phố Hà Nội. Luy Lâu là thủ
đô của xứ Giao Chỉ, tên cũ của Việt Nam, và là một trạm nghỉ chân quen
thuộc của các nhà truyền giáo đạo Phật người Ấn Độ, trên hành trình sang
Trung Hoa theo đường biển của các thương gia Ấn đi từ bán đảo Ấn Độ.
Một số kinh điển Đại Thừa và A-hàm đã được dịch sang Hoa văn tại đó,
chẳng hạn như kinh Tứ Thập Nhị Chương, An Ban Thủ Ý, Kinh Bổn Sanh, Kinh
Mi-lan-đa Vấn Đạo, v.v.
Trong
18 thế kỷ kế tiếp, vì điều kiện địa lý gần Trung Hoa và hai lần lệ thuộc
xứ nầy, Việt Nam và Trung Hoa có chung nhiều sắc thái di sản văn hóa,
triết học và tôn giáo. Phật Giáo VN phản ánh nhiều ảnh hưởng của các
phát triển hệ Đại Thừa tại Trung Hoa, với các tông phái Thiền, Tịnh và
Mật.” Sau khi đến Việt Nam, đạo Phật phát triển rất nhanh, vì hồi đó,
Việt Nam chỉ có một số người theo đao Lão, đạo Khổng, một số theo Mặc Tử
là một thứ tôn giáo khắc nghiệt, chú trọng vào hình phạt mà không dung
thứ. Cho nên, đạo Phật được yêu mến và chấp nhận trong hầu hết mọi gia
đình,cho dù không quy y Tam Bảo, không cạo đầu xuất gia. Các Vua Quan
tuy có người không theo đạo Phật nhưng vẫn kính trọng Tăng, Ni và chùa
chiền. Đặc biệt là các triều vua Lý cho tu sửa rất nhiều chùa, chiền,
nên Phật Giáo thịnh hành từ Nam chí Bắc.
Lý do
mà đạo Phật phát triển mạnh mẽ như vậy là vì tôn chỉ và giáo huấn của
Đức Phật đã dẫn con người sống hiền hòa, tự tu, tự tỉnh, tự giác, tự
ngộ. Trong Net của “loiphatday.org”, người ta thấy:
Phật bảo Thiện Sinh:
“Nếu
trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác
theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này
Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn
việc ác là lễ kính sáu phương”
Bốn
nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là
bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta
vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người,
cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều
mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế
gian.
Bốn
trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không
phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại,
loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm
trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu
si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục
vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát
triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã
hội, sự bình an, sự hạnh phúc..thì cần thực hành và phát huy.
Mười bốn điều Phật dậy được loan truyền nhiều nhất là:
Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng Tài sản lớn nhất của đời người là đạo đức Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết An ủi lớn nhất của đời người là bố thí
Quan
trọng hơn hết là Bát Chánh Đạo: Chánh kiến (quan niệm xác đáng về Tứ
Diệu đế), Chánh Tư duy (suy nghĩ đứng đắn), Chánh Ngữ (không nói láo hay
lời phù phiếm), Chánh Nghiệp (tránh phạm giới luật), Chánh tinh tiến (
Phát triển nghiệp tốt, diệt nghiệp xấu), Chánh Mệnh (tránh các nghề
nghiệp sát sinh, buôn vũ khí), Chánh Niệm (Thần, Khẩu, Ý), Chánh Định
(tư tưởng và hành động ổn định).
Về tương giao giữa tu sĩ và cư sĩ. Phật dậy:
Ðáp
lại, người tu sĩ vốn là vô sản, trọn ngày chỉ học Phật Pháp, khất thực
và hành Thiền định, chỉ có trao cho người cư sĩ tấm lòng từ mẫn, lân
mẫn, các hiểu biết về các pháp, và giới thiệu các cư sĩ con đường chân
chính đoạn khổ, xây dựng hạnh phúc ở đời. Tương hệ này là đầy tình đạo
và tình người.
Vị tu
sĩ chỉ trao truyền kiến thức và kinh nghiệm tu tập cho các phật tử, cung
cấp các kiến thức, trao truyền năm giới, mười giới, bát quan trai giới,
và khích lệ các phật tử giác tỉnh vô thường mà phát khởi tinh tấn tu
tập.
Vậy mà, thực tế, thì sao? Các tăng ni thời nay thực hành đạo như thế nào? Có theo lời Phật dậy hay đang “sát Phật” trong tâm tư?
Quay
lại bối cảnh gần đây nhất từ năm 1963, những tăng sĩ đứng hàng lãnh đạo
Giáo Phẩm, như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích
Minh Châu, Thích Tâm Châu, Thích Đôn Hậu… hành xử như thế nào trong tấm
áo cà sa: Thích Trí Quang tổ chức Phật Giáo Quyết Tử đi bắt người, đánh
người, giam người rồi ra lệnh kéo bàn thờ Phật xuống đường để chống
chính phủ, có nơi dựng bàn thờ Phật trên bãi rác. Hồi đó, Thích Quảng Độ
còn là Đại Đức thuộc nhóm Ấn Quang cũng chống chế độ tích cực. Nhóm
Trần Quang Thuận thì hô hào Thánh Chiến, chống chế độ, chích thuốc cho
Thích Quảng Đức không chống cự, rồi cho đổ xăng lên người và châm lửa.
Có giai đoạn cho Phật Tử xuống đường ở Saigon, phong bế các ngã tư, săn
tìm thanh niên Công Giáo để đâm, đánh. Ở Đà Nẵng thì cho Phật Tử Cứu
Quốc ào vào Thanh Bồ, Đức Lợi giết người, đốt nhà. Trong hàng ngũ Phật
Giáo với nhau cũng thanh toán nhau ác liệt.
Thích
Trí Quang và đệ tử có giai đoạn cho người săn bắt và giết Thích Tâm
Châu, khiến Thích Tâm Châu phải trốn vào một ngôi chùa nhỏ xíu ở Phan
Thanh Giản. Các lãnh tụ Phật Giáo tranh dành nhau Việt Nam Quốc Tự đến
đánh nhau đổ máu, đúng với lời Phât như sau:
“Có một số Sa-môn, Cùng với Bà-la-môn, Họ chấp trước,giành giật, Trong các luận thuyết này, Họ tranh luận tranh chấp, Họ nhìn chỉ một phía.”
Ngoài
ra, các sư còn có vợ con đùm đề. Thích Tâm Châu thì có vợ và một bà bồ ở
Vũng Tầu, được bà bồ nhí dựng cho một am ở ngay trên đầu một khách sạn
trên bãi trước, ngày ngày du hí với nhau. Thích Trí Dũng, chùa Nghĩa
Trang Bắc Việt có tới 2 bà vợ. Dân Saigon không ai không biết các Thầy
luôn đi Peugoet 404, 405 mới tinh láng cóng, trong xe trướng rủ, màn
che, các Thầy ngồi với các bà bảo trợ trong xe, chả ai biết làm cái gì.
Sau khi giết chết Tổng Thống và hai người em, Đại Tá Hồ Tấn Quyền,Tư
Lệnh Không Quân, Đại Tá Tư Lệnh bảo vệ Tổng Thống Phủ và người em vào
năm 1963, các Thầy tung hoành quyền lực vô số, nên ngang nhiên chứa gái
trong Chùa. Đến chùa Ấn Quang, đi ra phía sau, sẽ thấy có một hành lang
dài, hai bên là hai dẫy phòng, có tường thấp vừa đủ che đầu, và có cửa
là tấm vải xanh lè, đằng sau tấm vải là những tiếng cười khoái trí của
các bà. “Đừng, Thầy ơi! Kỳ quá!.. hích hích…” Phạm Sát Giới, giết người
xong rồi cũng bỏ chay sắc dục luôn.
Nói qua
về chính trị Phật Giáo hồi đó, nếu Thích Trí Quang là người tu sĩ chân
chính, sống chết vì đạo pháp, sao lại chạy vào tòa Đại Sứ Mỹ, núp trong
đó, để yêu cầu người Mỹ bảo vệ mình? Sau khi nhận được lời cam kết của
người Mỹ với trao đổi nào đó, thì Trí Quang ra ngoài tung hoành như lãnh
chúa. Ai không theo mình thì hạ luôn. Thích Đôn Hậu còn lộ nguyên hình
là cán bộ nằm vùng của Cộng Sản, khi bị lộ thì trốn luôn theo Việt Cộng,
rồi giữ chức Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc là
hang ổ Cộng Sản.
Ngày
nay, thì Phật giáo thê lương hơn. Ở Việt Nam, nếu không là Thượng Tọa,
Hòa Thượng Quốc Doanh, để nhận Huân chương Hồ Chí Minh thì bị diệt, hoặc
vô tù, hoặc bị giết chết trong tù. Còn ở hải ngoại thì có chiến dịch
xây Chùa, thi nhau xây Chùa lớn, Chùa to, khánh thành rực rỡ.
Chùa
Khánh Anh ở Paris tốn khoảng 20 triệu đô la, ai cũng biết. Chùa Viên
Giác ở Tây Đức cũng xấp xỉ 18 triệu đô la, trong Chùa còn có khách sạn
dành riêng cho các công an giả dạng sư từ Việt Nam sang. Ở Quận Cam,
tiểu bang California cũng tưng bừng xây Chùa. Chùa Bảo Quang của Thầy
Thi Sĩ Quảng Thanh tốn sơ 5 triệu vì thuê thợ Tầu sang, mang gổ Thái
Lan, gỗ Tầu sang. Chùa của Thầy Minh Mẫn, xây sớm hơn, nên chỉ tốn hơn 3
triệu đô. Đặc biệt là Thầy sử dụng một đội ngũ sư nữ để làm việc Chùa,
không có Sư nam. Mỗi dịp Tết là Thầy hốt bạc với chương trình ca vũ nhạc
ngay trong Chùa. Lời Phật dậy:
"Trong
đêm nay và ngày nay, ta nguyện sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc,
diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các
thời trang..." (Tăng chi bộ, chương Tám pháp).
Này các
tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca
hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo
âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác
ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm).
Nói
chung, là không ca hát hoa hòe hoa sói, không diễn tuồng ngân nga. Nhưng
các Thầy vẫn tổ chức đều chi để kiếm lợi. Nhiều Thầy còn lên sân khấu
hát nhạc diễu nữa. Mới đây, một nhóm ni cô ở Việt nam mặc quẫn áo bộ
đội, cầm súng múa hát, sau khi đã thay đồ trang phục như điếm già múa
quạt, lượn qua lượn lại. Ổ Việt Nam, ai cũng biết vụ Đàm Vĩnh Hưng hôn
môi Thầy Chùa say đắm!
Còn
biêt bao vụ như Thích Pháp Châu, Chùa Việt Nam (nay thành chùa Quán Âm)
đi chơi gái bị gái thu băng đòi tiền! Chùa Việt Nam cũng là nơi ổ đài
phát thanh Cộng Sản do luật sư lỡ thời Phùng Tuệ Châu điều hành. Vụ
Thích Trí Tín mới đây ở với vợ 2 con, Vụ Thích Hộ Giác, Thích Chánh
Lạc.. là những vụ nổi tiếng về sự bê bối. Thích Viên Lý có phen phải ra
hầu tòa…
Gần
đây, trong buổi lễ gọi là Tưởng niệm Pháp Nạn 1963, để vinh danh Thích
Quảng Đức, thì cư sĩ Huỳnh Tấn Lê, chủ tịch Tổng Hội Cư sĩ, phát biểu
chửi chế độ Ngô Đình Diệm tơi bời, cho là Tổng Thống Diệm giết nội miền
Trung hơn 300,000 Phật Tử, chưa kể miền Nam. (Cũng y như vụ Thích Nhất
Hạnh, hồi còn là Thượng Tọa, đã bỏ ra một số tiền khổng lồ là 100,000 đô
đăng báo, chửi Mỹ Ngụy và vọng ngữ cho là Mỹ Ngụy đã bỏ bom giết chết
hết 300,000 người dân Bến Tre!) Vụ tưởng niệm Pháp Nạn này là một chuỗi
dài nối tiếp với việc Cộng Sản Việt Nam hiện đang cho xây đài tưởng niệm
Thích Quảng Đức và chửi chể độ Diệm. Các buổi lễ ở Việt Nam, California
và Úc nằm trong một hệ thống làm việc chặt chẽ, kẻ tung ở quốc nội, thì
có người hứng ở hải ngoại.
Ăn uống
thì sao? Thầy nào cũng có sư nữ đứng hầu, chờ Thầy dùng xong một bát là
đón lấy, xới cơm rồi dâng lên cho Thầy. Đi xe thì đi xe láng, có tài
xế, có cận vệ. Nói về nghi thức, các Thầy hay tổ chức cầu cho “Cửu Huyền
Thất Tổ”, Chín đời, tám tổ để lấy tiền Phật Tử. Đã chết 9 đời rồi, đã
đầu thai đi khắp nơi rồi, có thể thành con bò, con trâu rồi, bây giờ
không lẽ chỉ vì vài tiếng kinh kệ, một mớ tiền dâng cúng, thì các tổ kia
sẽ được Ngọc Hoàng Thượng Đế thương tình mà cho tái sinh chăng? Trong
nhiều buổi lễ, nhất là tang lễ, Thầy Chủ Trì mặc áo như Đường Tam Tạng,
múa gậy Phương Trượng, đi vòng quanh quan tài, và rẩy nước Thánh, chẳng
khác gì thầy bùa, thầy pháp! Thiền Sư Nhất Hạnh thì chuyên môn tổ chức
tu thiền để lấy tiền chúng sinh, giao cho vợ thầy là Ni cô Cao Ngọc
Phượng, tự là “Chân Không”, (chân không nhưng túi đầy tiền), và còn tổ
chức Thiền Ôm để móc túi dân Tây nữa.
Như
vậy, đạo Phật còn hay mất? Người ta không thể nào nói đạo Phật còn, vì
từ tăng ni xuống tới Cư sĩ, đều thể hiện “tham, sân, si”, tham dục, vọng
ngữ, ác ngữ, ác tâm, ác hạnh. Chưa kể một lô những kẻ xưng là Trần
Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang thuộc nhóm Giao Điểm gồm có Đao Phủ
Nguyễn Đắc Xuân, và Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, những kẻ giết người không gớm
tay ở Huế. Dưới trướng của chúng có Trần Quang Diệu, Trần Tiên Long (tức
Trần Văn Quý), Hòa Bình (tên chuyên viên chuyển thư chống Công Giáo),
Giác Hạnh, và một danh sách dài những tên đốn mạt chuyên chửi tục hơn
hàng tôm, hàng cá trên diễn đàn, dưới danh nghĩa là Phật Tử.
Đạo Phật, một tôn giáo lớn hàng thứ ba trên thế giới đã chết ở Việt Nam và trong công đồng hải ngoại.
Nghiệp làm không chánh thiện, Làm rồi sanh ăn năn, Mặt nhuốm lệ, khóc than, Lãnh chịu quả dị thục….. Tỷ kheo, tát thuyền này, Thuyền không, nhẹ đi mau. Trừ tham, diệt sân hận, Tất chứng đạt Niết Bàn.
Viết trong mùa Pháp Nạn 1963-2013.
Vô Sắc Thiền Sư
|
No comments:
Post a Comment